|
TS Nguyễn Văn Chương( người đứng) và CS đang mổ gan bò thu hồi SLGL tại thực địa |
Sơ lược lịch sử phát hiện loài sán lá gan lớn Fasciola gigantica ở một số nước trên thế giới và miền Trung-Việt Nam
Sán lá gan lớn (SLGL) Fasciola hepatica (F.hepatica) ở người được phát hiện và đặt tên bởi tác giả Linaeus vào năm 1758. Năm 1856 tác giả Cobbold đã tìm ra loài Fasciola gigantica (F.gigantica). Bệnh SLGL được phát hiện khắp nơi trên thế giới, nó được thông báo ở châu Au, Nam Mỹ, Trung Mỹ, châu Phi, châu Á. Đối với châu Phi hai loài SLGL đều lưu hành với các tỷ lệ nhiễm khác nhau: loài F.hepatica phân bố ở các nước Moroco, Algeria, Nam Phi; loài F.gigantica phân bố ở các vùng châu thổ sông Nil. Tại châu Á, bệnh SLGL gặp chủ yếu ở động vật ăn cỏ có sừng, tỷ lệ nhiễm SLGL ở người khá thấp. Loài SLGL F.gigantica đã tìm thấy ở Nhật Bảnvà một số nước khác nhưIran,Triều Tiên và An Độ. Theo Joseph Cboray một số ổ dịch tễ SLGL F.hepatica còn gặp ở Triều Tiên, Đông Iran và một vùng nhỏ của Nhật Bản; loài ốc trung gian truyền bệnh SLGL là Lymnaea truncatula hoặc L.viridis. Loài sán lá gan lớn F.gigantica gặp ở Thái Lan, Malaysia, Singapo và Indonesia; vật chủ trung gian truyền bệnh là loài ốc L.rubiginosa. Cả 2 loài sán lá gan lớn F.hepatica và F.gigantica đều gặp ở Trung Quốc, Hồng Kông, Việt Nam, Lào, Cămpuchia và Philippine. Loài ốc trung gian truyền bệnh SLGL ở các đất nước này là L.a.swinhoei hoặc L.viridis; trong đó loài ốc L.a.swinhoei chỉ là vật chủ trung gian truyền bệnh của sán lá gan lớn F.gigantica, còn ốc L.viridis là vật chủ trung gian truyền bệnh cả 2 loài F.hepatica và F.gigantica | Hình ảnh tiêu bản SLGL |
Ở Việt Nam, năm 1928 Codvell đã thông báo phát hiện ra loài sán lá gan lớn F.gigantica. Năm 1978, Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh thông báo đã gặp 2 trường hợp nhiễm SLGL ở người. Năm 1999-2000, Hồ Việt Mỹ và cộng sự đã điều tra ở 3 huyện của tỉnh Bình Định cho thấy tỷ lệ nhiễm SLGL ở cộng đồng là 0,56%; loài sán lá gan lớn thu thập ở bò là loài F.gigantica. Tuy có những báo cáo của ngành thú y về loài SLGL ký sinh ở động vật ăn cỏ, nhưng những báo cáo về loài sán lá gan lớn ký sinh ở người lại rất hiếm gặp.
Từ năm2003-2005, khoa Ký sinh trùng của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã tiến hành đề tài cấp Bộ: “ Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh sán lá gan lớn ở một số điểm của 2 tỉnh miền Trung”. Đề tài được thực hiện tại 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà và kết quả cho thấy: mổ 8 gan bò tại 4 điểm nghiên cứu thu thập được 223 sán lá gan lớn trưởng thành trong gan; thu thập trứng sán lá gan lớn trong phân người bệnh nuôi cấy thành ấu trùng (Miracidium); sau khi định loại bằng kỹ thuật sinh học phân tử (PCR: Polymerase Chain reaction) tại Việnxác định loài SLGL ở người và động vật (bò) đều là F.gigantica. Điều tra tại các điểm nghiên cứu cho thấy loài ốc Lymnaea swinhoei nhiễm ấu trùng sán lá gan lớn với tỷ lệ 1,26%. Ngoài ra tháng 12/2006 Khoa Ký sinh trùng tiếp tục thu nhận 2 con sán trưởng thành chui từ ổ bụngvà từ bắp chân ra ở 2 bệnh nhân đều ở tỉnh Bình Định (1 ở huyện Tây Sơn, 1 ở thành phố Quy Nhơn). Kết quả xác định bằng PCR đều là loài sán lá gan lớn F.gigantica. Như vậy tại 3 tỉnh miền Trung (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà) chúng tôi đã xác định loài SLGL ký sinh trên người và động vật đều là loài sán lá gan lớn Fasciola gigantica. Liệu có loài sán lá gan lớn F.hepatica ở khu vực miền Trung hay không? hoặc còn có sự lai giữa 2 loài này hay không và các tỉnh còn lại trong khu vực nhiễm hay không nhiễm loài gì? Câu hỏi còn đang ở phía trước? Những nghiên cứu tiếp theo của Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn sẽ trả lời cho các đồng nghiệp trong tương lai.
|