Home TRANG CHỦ Chủ nhật, ngày 24/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 2 0 2 5 7 3
Số người đang truy cập
2 3 4
 Chuyên đề Sinh học phân tử
Sao biển Nam Thái Bình Dương (Asterias amurensis)
Danh mục 100 loài sinh vật được xem là nguy hiểm nhất trên thế giới

VI SINH VẬT

 
Aphanomyces astaci

  Aphanomyces astaci là một loại nấm sống trong nước ngọt và ký sinh ở tôm. Loại bệnh này đã và đang làm giảm sút trầm trọng trữ lượng tôm và có nguy cơ làm tuyệt chủng một vài loài trong tổng số 5 loài tôm bản địa của Châu Âu.

Tên thường gọi: Nấm bệnh tôm


Banana bunchy top virus

Virut bệnh thối hoa chuối là một mầm bệnh gây ra bệnh đỉnh hoa ở chuối. Véc tơ truyền bệnh là rệp cây Pentalonia nigronervosa và được coi là bệnh gây tổn thất kinh tế nghiêm trọng nhấttrong số các bệnh ở chuối trên toàn thế giới.

Tên thường gọi: Bệnh thối hoa chuối

 
Batrachochytrium dendrobatidis

Nấm bào tử ếch nhái được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1998 bởi một nhóm các nhà khoa học quốc tế của Úc, Mỹ và Anh và kể từ đó nấm này được coi là nguyên nhân làm suy giảm nghiêm trọng về số lượng của các loài ếch nhái ở những vùng nguyên sơ thuộc Panama và Úc.
Tên thường gọi: Chytridiomycosis, nấm bào tử ếch nhái

 

Cryphonectria parasitica

Bệnh thối cây dẻ do loài nấm gây thối cành và thân cây hạt dẻ. Sau khi nhiễm qua các vết thương trên vỏ cây, nấm xâm nhập sâu vào thân cây, gây chết cây ở phần trên của vết lây nhiễm. Loài nấm này đã tiêu diệt hầu hết cây hạt dẻ của châu Mỹ.

Tên thường gọi: bệnh thối cây dẻ

 
Plasmodium relictum

Trùng bào tử ký sinh được muỗi truyền và gây bệnh sốt rét ở chim (bệnh sốt rét chim) có thể gây chết cho các loài dễ nhiễm bệnh (chim cánh cụt) và chim (ở đảo Hawaii), là những nơi chưa cómặt loài ký sinh trùng của bệnh sốt rét này.

Tên thường gọi: bệnh sốt rét chim

 
Ophiostoma ulmi

            Bệnh héo rũ cây Du và có thể gây chết cây do loài nấm Ophiostoma ulmi. Loài nấm này được truyền do bọ cánh cứng ăn vỏ cây và qua cành ghép. Loài nấm này gây bệnh trầm trọng chocây Du ở vùng Nam Mỹ và Châu Âu.

Tên thường gọi: bệnh héo rũ cây Du

 

Rinderpest virus

Bệnh dịch virus Rinde ở các loài móng guốc chẵn. Bệnh gây viêm loét các màng nhầy đường tiêu hoá và làm cho con vật bị chết rất nhanh. Bệnh còn lưu hành ở nhiều vùng thuộc Châu Phi, Trung Đông và Nam Á.

Tên thường gọi: Bệnh dịch virus Rinde 
 
Phytophthora cinnamomi

P. cinnamomi là một loại nấm rễ gây bệnh tắc mạch dẫn và gây chết đối với nhiều loài thựcvật. Bệnh phát triển mạnh trong môi trường ẩm và ký sinh trên rễ và mô thân gần gốc. Bệnh làm suy yếu hoặc giết chết cây vì gây cản trở việc vận chuyển nước và dinh dưỡng trong cây.

Tên thường gọi: bệnh thối rễ phytophthora

 
THỰC VẬT THỦY SINH 

Eichhornia crassipes

Bèo Nhật Bản phát triển nhanh trong các thuỷ vực là làm tắc nghẽn đường thuỷ, cản trở giao thông thuỷ, làm ảnh hưởng đến việc bơi lội và câu cá. Bèo Nhật Bản phát triển lấp kín mặt nước, che hết ánh sáng của các loài tảo, cạnh tranh với các loài thực vật thuỷ sinh bản địa và làm giảm đáng kể tính đa dạng sinh học trong các hệ sinh thái thuỷ vực.
Tên thường gọi: Bèo Nhật Bản, Bèo Lục Bình (có ở Việt Nam)
 

 

Caulerpa taxifolia

Cỏ biển Caulerpa là loài thực vật thuỷ sinh được du nhập đến vùng Địa Trung Hải vào khoảng năm 1984, có thể dưới dạng cặn lắng trong nước bể nuôi sinh vật biển của bảo tàng sinh vật biển Monaco. Cỏ biển Caulerpa thích nghi tốt với các vùng nước lạnh và đã phát triển phủ kín nền đáy của các loài cỏ biển bản địa, ảnh hưởng có hại đối với nhiều sinh vật thuỷ sinh.
Tên thường gọi: cỏ biển Caulerpa 
 

 

Spartina anglica

Loài cỏ biển Spartina là thực vật thuỷ sinh có khả năng thích nghi cao, phát triển tốt ở các vùng ven biển và lan tràn rất nhanh. Chúng xâm lấn các vùng đầm lầy nơi có nhiều động vật không xương sống là thức ăn của chim cạn và chim nước, xâm lấn quần xã thực vật bản địa đa dạng và tạo điều kiện xâm lấn sản xuất nông nghiệp gây ra phá huỷ các sinh cảnh đầm lầy nước mặn ven biển.

Tên thường gọi: Cỏ biển Spartina

 

Undaria pinnatifida

Undaria có nguồn gốc từ Nhật Bản, nơi mà chúng được trồng làm thức ăn cho con người . Tảo bẹ Undaria phát tán chủ yếu bằng cách bám vào vỏ tàu. Tảo bẹ Undaria phát triển nhan tạo thành từng đám rậm rạp như rừng, cạnh tranh ánh sáng và chỗ ở dẫn đến việc phá huỷ hoặc thay thế các loài động thực vật bản địa.

Tên thường gọi: Tảo bẹ Undaria  
 

THỰC VẬT Ở CẠN

 
 Acacia mearnsii

Keo đen mearnsii là loài thực vật thường xanh, có độc tố, thường đạt đến độ cao 20m. Bên cạnh việc sản sinh ra một số lượng hạt rất lớn, mọc khoẻ, loài cây này còn sinh ra rất nhiều rễ hút cạnh tranh loại bỏ các loài bản địa và hình thành rừng cây đơn loài.

Tên thường gọi: Keo đen mearnsii

 

Ardisia elliptica

Ardisia elliptica là loài thực vật thường xanh, chịu bóng, phát triển rất nhanh tạo thành rừng cây rậm rạp đơn loài và cản trở sự phát triển của tất cả các loài cây khác.

Tên thường gọi: Cây Ardisia elliptica  
 

Arundo donax

Trúc Tây Ban Nha Arundo là loài cây thân thảo lưu niên đã và đang được du nhập rộng rãi vào vùng ôn đới và cận nhiệt đới. Khi đã thích nghi và phát triển, nó tạo thành các rừng cây rậm rạp đơn loài đồng thời cạnh tranh làm suy giảm quần xã thực vật bản địa và biến đổi nơi sống của chúng. Rừng trúc Tây Ban Nha Arundo còn là hiểm hoạ cháy rừng và lụt lội.

Tên thường gọi: Trúc Tây Ban Nha Arundo

 

Cecropia peltata

Cây gỗ Cecropia có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, được du nhập đến Cameroon, Bờ biển Ngà, Malaysia, và trở nên một loài xâm hại nguy hiểm. Cây gỗ Cecropia lan tràn vào những vùng đã bị xáo trộn, các dòng dung nham và các khoảng rừng trống. Ở Cameroon, Cây gỗ Cecropia cạnh tranh với một loài cùng họ hàng là loài Musanga Cecropioides.

Tên thường gọi: Cây gỗ Cecropia 

 

Chromolaena odorata

Cỏ lào Odorata là một loại cây bụi lưu niên phát triển nhanh và có hạt phát tán nhờ gió gặp ở những vùng đất trống và dễ thoát nước. Đây là một loài cỏ thường gặp ở các đồng cỏ và cánh đồng trồng trọt ở vùng nhiệt đới Châu Phi và Châu Á. Cỏ lào Odorata rất dễ cháy.

Tên thường gọi: cỏ lào Odorata

 

Cinchona pubescens

Cây kanh kina Cinchona xâm lấn vào cả trong rừng lẫn những nơi đất trống, hạt phát tán nhờ gió, và cạnh tranh thế chỗ phủ và bóng lên thảm thực vật bản địa.

Tên thường gọi: cây kanh kina Cinchona 

 

Clidemia hirta

Cỏ saphony là loài cây bụi có chất độc, có thể mọc cao đến 2m ở đồng cỏ và trong rừng. Đây là một loài xâm lấn phát triển nhanh và loài trừ tất cả các loài thực vật khác mọc dưới tán.
Tên thường gọi: cỏ saphon.

 

Euphorbia esula

            Đại kích Esula là loài bản địa của Châu Âu và Châu Á, hiện nay được tìm thấy ở khắp nơi trên thế giới trừ Úc. Loài xâm hại hung hãn này tiêu diệt các loài thực vật bản địa bằng cách che tối, hút hết nước và dinh dưỡng và sinh ra độc tố thực vật ngăn cản sự phát triển của các loài khác mọc dưới tán của nó.

Tên thường gọi: Đại kích Esula  
 

Hedychium gardnerianum

Gừng dại là loài cây thân củ có hạt phát tán nhờ chim. Phát triển nhanh làm tắc ngẽn vùng ven bờ các dòng chảy. Phát tán ra tự nhiên từ vườn nhà.

Tên thường gọi: gừng dại 

 

Hiptage benghalensis

Cây tơ mành có thân leo, hoa màu trắng/vàng có mùi thơm. Thích hợp với khí hậu từ ôn đới ấm đến nhiệt đới. Đây là một loài xâm hại ở La Réunion và Mauritius. Ở Mauritius nó xâm lấn các vùng rừng trên đất thấp. Tại Việt Nam mọc hoang trong rừng, cây làm thuốc chữa vết thương, gãy xương.

Tên thường gọi: Cây tơ mành (mạng nhện)

 
Imperata cylindrica

            Cỏ tranh là một loài cỏ thường gặp (thực vật C4, có nguồn gốc ở Cựu Thế Giới) sống trong điều kiện nóng ở nhiều nước châu Phi, Nam Sahara, Nam và Đông nam Á. Xuất hiện như một loài cỏ dại ở nhiều đảo vùng Thái Bình Dương. Tại Việt Nam có ở nhiều nơi, mọc nơi sáng, cây làm thuốc giải nhiệt.

Tên thường gọi: cỏ tranh

 

Lantana camara

Cây ngũ sắc được trồng rộng rãi ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và ôn đới làm cây cảnh. Cây ngũ sắc thích nghi và phát triển rất nhanh như một loài cỏ dại trên các đồng cỏ và trong môi trường ở khoảng 50 nước. ở Việt Nam được trồng ở nhiều nơi, dùng làm thuốc cầm máu, sát trùng

Tên thường gọi: Cây ngũ sắc, Bông ổi 

 

Leucaena leucocephala

            Cây Keo dậu là loài cây không gai mọc thành các bụi cây rậm, cạnh tranh loài trừ tất cả cácloài khác. Hạt được phát tán nhờ bọn gặm nhấm và chim ăn thực vật. ở Việt Nam mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi.

Tên thường gọi: Cây Keo dậu

 
 Ligustrum robustum

            Cây râm vối là một loài xâm hại và là mối đe doạ nguy hiểm đối với đa dạng sinh học của các khu rừng ở La Réunion và Mauritius. Khả năng mọc mầm, sinh trưởng nhanh, chịu bóng và tỷ lệ chết thấp cùng với một lượng quả rất lớn phát tán nhờ chim đã góp phần tăng khả năng xâm lấn các khu rừng nguyên sơ.

Tên thường gọi: cây râm vối 
 

Lythrum salicaria

            Cây Chân Châu Tía là một loài cỏ lưu niêm, mọc thẳng, có thể cao đến 3m. Loài thực vật này là loài cỏ dại địch hại ở vùng Bắc Mỹ và Canađa. Cây Chân Châu Tía xâm lấn các vùng đất ngập nước tự nhiên cũng như đã bị khai phá và khi đã thích nghi và phát triển thì trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh và loại trừ các loài thực vật bản địa, làm thay đổi môi trường sống.

Tên thường gọi: cây Chân Châu Tía 

 

Melaleuca quinquenervia

Tràm gió là loài cây gỗ cao có nguồn gốc Đông Úc, New Guinea và New Caledonia, xâm lấn vào các vùng đầm lầy thoáng.

Tên thường gọi: tràm gió 

 

Miconia calvescens

Cây Miconia là một loài cây xâm hại chiếm ưu thế ở các đảo đại đương nhiệt đới thuộc quầnđảo Jame Cook (Pô li nê đi) và Hawaii (Mỹ) nơi chúng được du nhập vào làm cây cảnh.

Tên thường gọi: Cây Miconia

 
 Mikania micrantha

             Cây Mikania là một loài cây leo rậm rạp, mọc tốt ở nơi đất có hàm lượng dinh dưỡng, chấthữu cơ, độ ẩm của đất và không khí cao.

Tên thường gọi: Cây Mikania 

 

Mimosa pigra

            Cây Trinh nữ Đầm lầy là loài cây bụi, thân gỗ, mọc cao tạo thành những bụi cây rậm rạp,lớn, đầy gai, không xuyên qua được ở những vùng đất ngập nước theo mùa thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây Trinh nữ Đầm lầy có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới châu Mỹ.
Tên thường gọi: Cây Trinh nữ Đầm lầy
 

 

Myrica faya

Cây Móng rồng Hawaii là loài cây bụi thường xanh được du nhập vào Hawaii từ cuối nhữngnăm 1800 để làm cảnh. Hiện nay chúng xuất hiện trên hầu hết các đảo lớn của Hawaii. Khi đã thích nghi và phát triển, chúng tạo thành các bụi cây rậm rạp, đơn loài và ngăn cản sự tái sinh của các loài bản địa.

Tên thường gọi: Cây Móng rồng Hawaii 

 
Opuntia stricta

              Xương rồng đất là loài cây lưu niên có nguồn gốc ở Đông Bắc Hoa Kỳ, có tính thích nghi cao, có thể sống và phát triển được trong điều kiện khô hạn. Cây xương rồng đất phát triển nhanh tạo thành các bụi rậm đầy gai làm bị thương gia súc và ngăn cản sự chăn thả gia súc. Chúng cạnh tranh rất mãnh liệt với các loài có ích ở đồng cỏ.

Tên thường gọi: xương rồng đất

 

Pinus pinaster

             Thông Biển Sao là loài cây có nguồn gốc từ Vịnh Địa Trung Hải được đem trồng ở vùng ônđới nằm trong và ngoài phạm vi phân bố tự nhiên của chúng vì nhiều lý do. Chúng phát triển rất nhanh ở bất kỳ chỗ nào được trồng. Tại nhiều nơi, chúng xâm lấn các thảm cây bụi, rừng và thảm cỏ tự nhiên.

Tên thường gọi: Thông Biển Sao 
 

Polygonum cuspidatum

              Cây Chút Chít Nhật là loài cây thân thảo lưu niên mọc nhanh tạo nên các bụi to và có thểcao từ 1 - 3m. Khi đã thích nghi và phát triển, chúng tạo thành các bụi cây rậm rạp làm che tối và đẩy lùi các loài thực vật khác, làm giảm tính đa dạng loài và thay đổi môi trường sống tự nhiên.
Tên thường gọi: Cây Chút Chít Nhật

 

Prosopis glandulosa

             Cây đương Prosopis là loài cây bụi, lưu niên, thân gỗ, rụng lá hàng năm mọc nhanh tạothành các bụi cây dày đặc cạnh tranh mãnh liệt với các loài cây bản địa về nước và có thể làm giảm tính đa dạng loài dưới tán của nó. Hạt của loài cây này có thể tồn tại 10 năm trong đất.
Tên thường gọi: Cây đương Prosopis
 

 
Psidium cattleianum

             Cây Phan Thạch Lựu mọc nhanh tạo thành các bụi cây rậm rạp và che bóng các loài cây bản địa ở vùng rừng nhiệt đới. Loài cây này gây ra các tác động nghiêm trọng đến sinh cảnh bản địa ở Maurituis và được coi là loài thực vật xâm hại nguy hiểm nhất ở Hawaii, nơi mà loài này đã xâm lấn rất nhiều vùng tự nhiên khác nhau.

Tên thường gọi: Cây Phan Thạch Lựu.

 

Pueraria montana

             Cây sắn leo montana là loài cây dây leo nửa gỗ, chi sắn dây, có đặc điểm bò leo bao phủ mặtđất và cây cối khác. Cây sắn leo montana đã được báo cáo là xâm lấn 2 đến 3 triệu hecta ở miền Đông nước Mỹ và gây tổn thất năng suất cây trồng ước tính tới 500 triệu đô la mỗi năm.
Tên thường gọi: Cây sắn leo montan.

 

Rubus ellipticu

             Cây Mâm Xôi vàng Himalaya là một loại cây bụi có gai, xâm lấn các khu rừng bản địa.Mâm Xôi vàng Himalaya xâm thực bằng chồi ngầm và hạt được phát tán nhờ chim và thú ăn hạt. Mâm Xôi vàng Himalaya gây ra nhiều tác hại ở Hawaii, nơi mà nó đã và đang cạnh tranh loài trừ một loài bản địa là Mâm Xôi Hawaii (Rubus hawaiiensis)

Tên thường gọi: Mâm Xôi vàng Himalaya

 

Schinus terebinthifolius

             Cây Nhựa Ruồi Braxin có nguồn gốc từ Achentina, Paraguay và Brazil. Cây Nhựa Ruồi Braxin là một loài tiên phong ở các vùng đất đã được cày cấy và cũng phát triển tốt ở các môi trường đất còn nguyên sinh. Cây Nhựa Ruồi Braxin là loài cỏ xâm thực mạnh, chiếm chỗ của nhiều loài thực vật bản địa.

Tên thường gọi: Cây Nhựa Ruồi Braxin. 

 

Spathodea campanulata

            Cây Tupip Châu Phi là một loài cây chịu bóng, màu sắc sặc sỡ lấn chiếm các vùng đất nôngnghiệp bị bỏ hoang và các khu rừng rậm. Chúng thích hợp ở những vùng ẩm và ướt từ mực nước biển đến độ cao 1000m. Đây là loài xâm thực gây hại ở Hawaii, Fiji, Pô Li Nê Si và Samoa. Hạt được phát tán nhờ gió và nảy mầm rất nhanh.

Tên thường gọi: Cây Tupip Châu Phi, Uất kim hương Châu Phi 

 

Tamarix ramosissima

             Thánh Liễu là loài cây bụi có nguồn gốc ở Châu Á và Đông Nam Châu Âu. Hiện nay CâyThánh Liễu đã trở nên thích nghi tốt ở Mỹ và Mê Hi Cô. Thánh Liễu có khả năng mọc trên đất nhiễm mặn cao và dễ dàng sinh sôi dọc kênh mương gây tắc ngẽn khi mực nước lên cao dẫn đến lụt lội.

Tên thường gọi: Cây Thánh Liễu

 

Ulex europaeus

             Kim tước là một loài cây bụi thường xanh, lưu niên và có gai, mọc thành bụi rậm rạp. Cây Kim tước mọc phổ biến ở những khu vực đất đã được khai khẩn, thảm cỏ, thảm cây bụi, bìa rừng, ven biển và những vùng đất hoang. Đây là một loài phát triển rất tốt và khó tiêu diệt một khi chúng đã thích nghi và phát triển.

Tên thường gọi: Cây Kim Tước

 
 Wedelia trilobata

             Cúc bò là loài cây leo thân thảo có nguồn gốc từ Trung Mỹ mọc rất nhanh tạo thành cácmảng dày đặc, làm cản trở và ngăn cản sự tái sinh của các loài cây khác.

Tên thường gọi: Cúc bò

 

ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG Ở NƯỚC 

 

Asterias amurensis

             A. amurensis là một loài động vật không xương sống ở biển có nguồn gốc từ Trung Quốc,Triều Tiên, Nga và Nhật Bản. Loài sao biển này đã và đang lan tràn sang vùng Bắc Mỹ và Úc gây ra tác động nghiêm trọng đến quần thể các loài động vật nhuyễn thể bản địa. Tại những nơi có mật độ loài sao biển này cao hầu hết các loài hai mảnh vỏ và các loài động vật không xương sống sống bám hoặc cố định đều bị loại trừ.

Tên thường gọi: Sao biển Nam Thái Bình Dương

 
Carcinus maenas

             Loài cua xanh có nguồn gốc từ Châu Âu và Bắc Phi. Cua xanh đã được du nhập vào Mỹ, Úcvà Nam Phi. Cua xanh là một loài ăn thịt phàm ăn có thành phần thức ăn bao gồm các loài thân mềm hai mảnh vỏ đặc biệt là trai. Tại những nơi du nhập của xanh gây ra hiện tượng suy giảm số lượng của các loài cua khác và các loài thân mềm hai mảnh vỏ.
Tên thường gọi: cua xanh, cua ven bờ châu Âu

 

Cercopagis pengoi

              Cercopagis pengoi là loài giáp xác nhỏ có nguồn gốc tử các vùng biển Caspian, Azov và Ả rập. Loài giáp xác này đã xâm nhập vào biển Baltic, Vịnh Riga, Phần Lan và Ngũ Đại hồ. Ở đây chúng đã sinh sôi rất mạnh và cạnh tranh về thức ăn với cá, vì là loài giáp xác ăn thịt nhiều động vật thuỷ sinh nó làm tăng hiện tượng phì dưỡng.

Tên thường gọi: Giáp xác Cercopagis pengoi

 

Dreissena polymorpha

             Trai vằn có nguồn gốc từ Biển Caspy và Biển Đen. Hiện nay chúng đã xâm nhập và thíchnghi phát triển ở Anh, Tây Âu, Canađa và Mỹ. Trai vằn cạnh tranh với động vật nổi về thức ăn và do đó ảnh hưởng tới lưới thức ăn tự nhiên. Chúng còn gây ảnh hưởng đến các chức năng sinh thái của các loài thân mềm bản địa và gây ra tổn thất lớn về kinh tế.
Tên thường gọi: trai vằn.
 

 

Eriocheir sinensis

              Cua khe di cư có nguồn gốc từ Châu Á đã góp phần làm tuyệt chủng các loài động vật không xương sống bản địa ở nhiều nơi, chúng làm biến đổi môi trường sống bằng các hoạt động đào hang và gây tổn thất 100000 đô la mỗi năm cho một số ngành công nghiệp (nghề cá và cá cảnh)
Tên thường gọi: Cua khe di cư

 

Mnemiopsis leidyi

              Sứa Lược Leidyi là loài bản địa thuộc vùng tây Atlantic, tuy nhiên sự bùng nổ số lượng quần thể của chúng ở vùng Biển Đen đã dẫn đến sự thay đổi rất lớn đối với cấu trúc hệ sinh thái ở đây do chúng ăn thịt cá con. Ngoài ra chúng cũng ăn thịt cả các loài thân mềm sống nổi và ấu trùng các loài động vật giáp xác.

Tên thường gọi: Sứa Lược Leidyi 

 

Mytilus galloprovincialis

             Trai địa trung hải xâm nhập vào Nam Châu Phi và đang cạnh tranh thế chỗ các loài trai đenvà nâu bản địa. Đôi lúc Trai Địa Trung Hải còn được gọi là trai xanh và dễ bị nhầm lẫn với loài Mytillus edilus. Đây là một loài được du nhập vào Hawaii và nhiều nơi khác thuộc Mỹ.

Tên thường gọi: trai địa trung hải

 
 Potamocorbula amurensi

              Trai Trung Hoa có nguồn gốc ở Nhật Bản, Trung Quốc và Triều Tiên, được du nhập vào Mỹ và gây tác hại nghiêm trọng đến môi trường nước ở đây do chúng đã cạnh tranh thế thế được vị trí của các quần xã sinh vật đáy bản địa cũng như tiêu diệt quần xã thực vật nổi.
Tên thường gọi: Trai Trung Hoa

 
ĐỘNG VẬT KHÔNG XƯƠNG SỐNG Ở CẠN

Linepithema humile

             Kiến Achentian được một số người đánh giá như Vua Genghis của thế giới loài kiến. Loài kiến Achentina này có thành phần thức ăn đa dạng và sinh ra rất nhiều kiến thợ cần cù và hung hãn. Khi đã thích nghi và phát triển trong một nơi sống cực thuận, chúng thường loại trừ tất cả các loài kiến khác, cả kiến bản địa lẫn du nhập.

Tên thường gọi: Kiến Achentian.

 

Anoplophora glabripennis

             Mọt gỗ Anoplophora là loài bọ cánh cứng màu đen bóng và có đốm trắng này là một loàiđịch hại nguy hiểm đối với các loài cây gỗ cứng tại quê hương của chúng là Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Loài mọt này đã và đang trú ngụ trong các bao bì bằng gỗ cứng tại Mỹ và Anh và sự phá hoại của chúng đã được thông báo tại New York năm 1996 và Chicago năm 1998.
Tên thường gọi: Mọt gỗ Anoplophora.
 

 

Aedes albopictus

             Loài muỗi vằn Châu Á được du nhập vào Mỹ và nhiều nước khác theo vỏ lốp xe cũ nhậpkhẩu. Loài muỗi này liên quan đến việc truyền bệnh sốt xuất huyết, viêm não ngựa phương đông, sán tim chó, và có thể cả vi rút viêm não St. Louis và LaCrosse.

Tên thường gọi: Muỗi vằn Châu Á, muỗi sốt xuất huyết 

 

Pheidole megacephala

             Kiến Đầu To, có nguồn gốc từ châu Phi, là một loài sống lang thang, lan tràn trên toàn cầu qua con đường thương mại của con người. Đây là một loài kiến ăn thịt hung dữ đã tiêu diệt nhiều loài sinh vật bản địa bản địa như kiến, bọ cánh cứng, bướm đêm và nhện.

Tên thường gọi: Kiến Đầu To 

 

Anopheles quadrimaculatus

             Loài muỗi tương đối to này là véc tơ truyền bệnh chính của bệnh sốt rét. Loài này chủ yếu sinh sản ở các vực nước ngọt tĩnh và đốt người và vật nuôi vào ban đêm.

Tên thường gọi: muỗi anophel, muỗi sốt rét

 

Vespula vulgaris

             O­ng Bắp Cày làm tổ dưới đất và trong hốc cây và hốc nhà. Bên cạnh việc đốt người rất đau,nó còn cạnh tranh với chim và các loài côn trùng khác về thức ăn côn trùng và mật. Chúng cũng ăn cả quả và tìm thức ăn ở quanh các thùng rác và trong các khu vực cắm trại du lịch.

Tên thường gọi: o­ng Bắp Cày 

 

Wasmannia auropunctata

Kiến lửa nhỏ, bị coi là thủ phạm làm suy giảm tính đa dạng loài, làm giảm số lượng côn trùng có cánh, mọt gỗ và tiêu diệt các quần thể nhện. ở Galapagos, chúng còn ăn thịt cả rùa con mới nở và đốt mắt và huyệt của rùa trưởng thành.

Tên thường gọi: Kiến lửa nhỏ

 
 Cinara cupressi

Loài rệp bách gây tác hại nghiêm trọng đối với các loài Bách và Bách Xù ở nhiều nước. Đây là một loài rất hung hãn, sử dụng nhiều các bộ phận khác nhau của cây làm thức ăn như cành xanh và thân gỗ. Tổn thất gây ra từ chỗ phá hoại từng phần đến làm chết toàn bộ cây.

Tên thường gọi: rệp bách 
 

Anoplolepis gracilipes

             Được gọi là kiến điên đẻ chỉ thị cho sự hoạt động một cách hung dữ của chúng, loài kiến này đã và đang xâm lấn các hệ sinh thái bản địa và gây tổn thất về môi trường ở các khu vực như Hawaii, Đảo Christmas, Seychelles và Zanzibar.

Tên thường gọi: kiến điên, kiến vàng điên

 

Platydemus manokwari

             Sán ốc sên được du nhập vào nhiều đảo thuộc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương để kiểmsoát loài ốc sên Châu Phi. Sán ốc sên đã trở thành mối đe doạ nghiêm trong đối với các loài nhuyễn thể chân bụng bản địa. Ở Guam, cũng đang đe doạ các loài trong họ Partulidae ở đảo Mariana cũng như các loài sống trong đất đặc hữu ở đây.

Tên thường gọi: Sán ốc sên 

 
Coptotermes formosanus

            Loài Mối nhà này gây ra nhiều tổn thất đáng kể cho cây cối, nhà cửa, cột điện thoại, đường điện và điện thoại ngầm. Ở Hawai, chi phí để ngăn chặn và/hoặc kiểm soát sự phá hoại và sửa chữa những thiệt hại do loại mỗi này gây ra lên tới hơn 60 triệu đô la mỗi năm.

Tên thường gọi: Mối nhà

 
 Achatina fulica

Loài ốc sên Châu Phi đã và đang được du nhập rất nhiều vào các nước Châu Á, các hòn đảothuộc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, và gần đây được du nhập vào vùng Tây Ấn. Đây là một loài địch hại nguy hiểm đối với nông nghiệp và là véc tơ của một số mầm bệnh và giun tròn.

Tên thường gọi: ốc sên Châu Phi, ốc sên
 

Pomacea canaliculata

Ốc bươu vàng là một loài ốc nước ngọt phàm ăn và ăn các loại thực vật thuỷ sinh như sen, khoai sọ, củ ấu và lúa. Đây là một loại địch hại nguy hiểm đối với mùa màng ở Đông Nam Á và Hawaii đã gây ra một mối đe doạ nguy hiểm đối với nhiều vùng đất ngập nước trên toàn thế giới do có thể làm thay đổi sinh cảnh và cạnh tranh với các loài bản địa.

Tên thường gọi: ốc bươu vàng 

 
 Lymantria dispar

Sâu róm sồi là một trong số những địch hại nguy hiểm nhất đối với các vườn cây ăn quả và cây cảnh trên toàn vùng bán cầu bắc. Sâu róm sồi cũng là một loài địch hại nguy hiểm đối với các khu rừng gỗ cứng. Sâu ăn hại rụng lá hàng loạt dẫn đến làm giảm tốc độ sinh trưởng và sức sống của cây.

Tên thường gọi: Sâu róm sồi

 

Trogoderma granarium

Mọt cứng đốt là một trong số địch hại nguy hiểm đối với các kho chứa hàng trên toàn thếgiới và là đối tượng kiểm dịch quốc tế. Chúng có khả năng sống sót trong các kho chứa với một mật độ rất thấp và có thể sống rất lâu trong trạng thái tiếm sinh.

Tên thường gọi: Mọt Cứng Đốt 

 

Solenopsis invicta

Kiến lửa đỏ là một loài côn trùng ăn thịt hung dữ, sinh sản nhanh, có số lượng lớn và luônchiếm ưu thế về hầu hết các nguồn thức ăn. Do có nọc, chúng có thể đánh bại con mồi và đuổi những kẻ cạnh tranh là động vật có xương sống lớn hơn ra khỏi nguồn tài nguyên của nó. Thức ăn gồm động vật không xương sống, động vật có xương sống và thực vật.

Tên thường gọi: Kiến lửa đỏ 

 
Euglandina rosea

Loài sên sói tía ăn thịt này được du nhập vào các đảo thuộc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương làm tác nhân kiểm soát sinh học đối với một loài xâm hại khác là ốc sên châu Phi (Achatina fulica). Đây là nguyên nhân gây ra tuyệt chủng của loài sên Partulid ở vùng Polynesia thuộc Pháp.

Tên thường gọi: sên sói tía

 

Bemisia tabaci

Loài ruồi hại khoai lang này là loại hại nguy hiểm đối với các loại cây trồng làm thực phẩm và lấy sợi trên toàn thế giới. Sự thiệt hại xảy ra do dòi đục và hút nhựa trên lá của cây, là véc tơ truyền virut gây bệnh hại cây, và tạo ra dịch ngọt làm giá thể cho phát triển của nấm bồ hóng trên lá.

Tên thường gọi: ruồi hại khoai lang, ruồi thuốc lá  

 

LƯỠNG CƯ

Bufo marinus

Loài cóc mía được du nhập rộng rãi vào nhiều nước trên thế giới, sử dụng làm tác nhânphòng trừ sinh học đối với sâu gây hại mía. Hiện nay Cóc tía đã trở thành một địch hại ở những nơi được du nhập đến. Cóc tía rất phàm ăn và ăn thịt tất cả các loại sinh vật mà nó tìm được. Cóc tía còn săn bắt ăn thịt và cạnh tranh thức ăn, nơi sinh sản với các loài lưỡng cư bản địa.

Tên thường gọi: cóc mía, cóc khổng lổ, cóc biển 

 
 Eleutherodactylus coqui

Ếch Carribe là một loài ếch nhỏ, ồn ào, ăn thịt sâu bọ, có nguồn gốc từ Puerto Rico, nơi mà chúng sinh sản và có thể sống với mật độ đến 20000 cá thể trên một hecta. Chúng thích nghi và phát triển ở Hawaii và Đảo Virgin. ở Hawaii, chúng được coi vừa là loài gây hại ở thành thị vừa có khả năng đe doạ đến các loài chim rừng bản địa.

Tên thường gọi: Ếch Carribe

 

Rana catesbeian

Ếch ương beo phát tán đến nhiều nước do hoạt động thương mại buôn bán thuỷ sản và cácảnh. Ếch ương beo là đối tượng buôn bán và thường được nuôi lấy thịt ở nhiều nước trên thế giới. Vấn đề chính là trong tự nhiên chúng có khả năng thích nghi cao, cạnh tranh mạnh và ăn cả các loài bò sát bản địa.

Tên thường gọi: Ếch ương beo

 
  

Salmo trutta

Cá hồi nâu được du nhập vào nhiều thuỷ vực nước lạnh trên toàn thế giới để phục vụ việccâu cá, hiện nay đã thích nghi và phát triển tốt ở nhiều nơi. Cá hồi nâu đã cạnh tranh lấn át làm giảm quần thể các loài cá bản địa (đặc biệt là các loài khác thuộc họ cá Hồi), lưỡng cư và động vật không xương sống do chúng ăn thịt, chiếm chỗ và cạnh tranh thức ăn.

Tên thường gọi: Cá Hồi Nâu  

 

Cyprinus carpio

Loài cá chép này được du nhập vào các vực nước ngọt trên toàn thế giới để làm thực phẩm và làm cảnh. Loài cá chép này bị coi là một loài gây hại vì chúng thường nhanh chóng đạt mật độ cao và khuấy động làm giảm độ trong của nước, phá huỷ, làm bật rễ các loài thực vật thuỷ sinh là nơi trú ngụ của nhiều loài sinh vật thuỷ sinh.

Tên thường gọi: cá chép

 

Micropterus salmoides

Do thịt ngon và hấp dẫn về mặt thể thao, cá vược miệng rộng được du nhập rộng rãi khắp thế giới. Đây là một loài ăn thịt, phàm ăn, săn mồi một mình và ăn cả ngày lẫn đêm. Thức ăn của chúng gồm cá, tôm, lưỡng cư và côn trùng.

Tên thường gọi: cá vược miệng rộng 

 

Oreochromis mossambicus

Cá rô phi Mozambique được phổ biến, du nhập vào nhiều nước trên thế giới để nuôi làmthực phẩm. Các quần thể đã thích nghi của loài này trong tự nhiên là kết quả của việc cố tình thả ra hoặc để xổng từ các trang trại nuôi chúng. Đây là một loài ăn tạp và chúng ăn gần như mọi thứ từ tảo đến côn trùng. Chúng tạo thành các quần thể đông đặc và thiếu thức ăn trong các thuỷ vực sinh sống.

Tên thường gọi: Cá Rô Phi Mozambique

 

Lates niloticus

Cá vược sông Nile được du nhập vào hồ Victoria năm 1954, ở đó nó đã góp phần làm tuyệt chủng hơn 200 loài cá bản địa do bị chúng ăn thịt và cạnh tranh thức ăn.

Tên thường gọi: cá vược sông Nile.  
 
Oncorhynchus mykiss

Cá hồi cầu vồng là một loài cá làm trò chơi phổ biến và được du nhập vào nhiều sông và hồ.Chúng đã phát triển nhanh và đe doạ loại trừ các loài cá bản địa bằng cách ăn thịt ấu trùng đồng thời còn giao phối chéo với những loài các hồi khác làm ảnh hưởng đến bộ gen của chúng. Ngoài ra chúng còn cạnh tranh loại trừ một số loài cá khác bằng cách chiếm chỗ ở của chúng.

Tên thường gọi: cá hồi cầu vồng

 
 Clarias batrachus

Loài cá trê ăn thịt phàm ăn này có nguồn gốc ở Đông Á và đã được du nhập vào Florida từnăm 1960 để gây nuôi. Từ đó loài cá trê này đã thích nghi và phát triển rộng rãi trong tự nhiên trên toàn bang Florida. Vào mùa khô, một số lượng lớn loài cá trê này có thể bị dồn tập trung lại trong một số ao hồ và ăn thịt các loài cá bản địa ở đây.

Tên thường gọi: cá trê

 

Gambusia affinis

Được du nhập vào nhiều nơi trên thế giới với một quan điểm sai lầm cho rằng chúng có khả năng diệt muỗi hiệu quả hơn so với các loài cá bản địa ăn bọ gậy, loài cá gambu này đã và đang gây hại cho các hệ sinh thái thuỷ vực vì đặc tính phàm ăn của chúng. Việc thả loài cá gambu để diệt bọ gậy muối vẫn đang được một số cơ quan phòng chống muối sốt rét và muỗi gây bệnh khác tiến hành.

Tên thường gọi: cá gambu, cá diệt bọ gậy

 
CHIM  

Bacridotheres tristis

Đây là loài chim bản địa của Ấn Độ, nhưng đã và đang được du nhập đến mọi nơi trên thếgiới, chủ yếu là để tiêu diệt sâu hại nông nghiệp. Tuy nhiên, loài chim này cũng làm suy giảm tính đa dạng sinh học do việc cạnh tranh về nơi làm tổ, tiêu diệt các loài chim nhỏ và trứng của chúng và đánh đuổi các loài động vật nhỏ. Tại Việt Nam, sáo nâu phân bố ở khắp mọi vùng của đất nước

Tên thường gọi: Sáo nâu

 

Pycnonotus cafer

Chào mào đít đỏ (có nguồn gốc ở một số vùng thuộc Châu Á) được du nhập vào một số đảo ở Thái Bình Dương. Tại đây chúng gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng như ăn quả và cây trồng cũng như mật hoa, hạt và chồi cây. Chào mào đít đỏ là một loài hung hãn, cạnh tranh nơi ở và đánh đuổi các loài chim khác.

Tên thường gọi: Chào mào đít đỏ

 

Sturnus vulgaris

Sáo đá xanh có nguồn gốc ở vùng Á Âu và Bắc Phi và hiện nay đã xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới. Sáo Đá xanh là một loài cực kỳ phàm ăn và ăn gần như tất cả mọi thứ làm giảm số lượng côn trùng bản địa và phá huỷ mùa màng. Đây là một loài chim hung hăng và đã loại trừ nhiều loài chim bản địa do cạnh tranh nơi làm tổ. Tại Việt Nam, Sáo Đá xanh bắt gặp ở Hải Dương và Hưng Yên vào mùa đông năm 1975-1976.

Tên thường gọi: Sáo Đá xanh 

 

BÒ SÁT

Boiga irregularis

Loài rắn nâu leo cây này đã và đang làm thay đổi hệ sinh thái trên cạn và phá hoại hệ thống cung cấp điện của Guam. Có nguồn gốc từ úc và Papua New Guinea, loài rắn này nổi tiếng vì khả năng trà trộn vào hàng hoá, lên các chuyến bay và đến nhiều nước trên thế giới.

Tên thường gọi: rắn nâu leo cây

 

Trachemys scripta

Rùa tai đỏ là một loài vật nuôi thông dụng và do đó đã phát triển ở nhiều vùng trên thế giới và trở thành đối thủ cạnh tranh với các loài rùa nước bản địa. Đây là loài ăn tạp và có thức ăn gồm côn trùng, tôm, giun, ốc sên, lưỡng cư và cá con cũng như cả thực vật thuỷ sinh.

Tên thường gọi: Rùa Tai Đỏ 

 

THÚ

Trichosurus vulpecula

Thú có túi đuôi rậm sống đơn độc, ăn đêm, sống trên cây (được du nhập từ Úc) phá hoại các khu rừng bản địa ở Niu Giê Lân bằng cách ăn một số các loại lá và quả. Chúng còn ăn cả tổ chim và là vectơ truyền bệnh lao ở bò.

Tên thường gọi: Thú có túi đuôi rậm

 

Felis catus

Mèo, ở nhiều dạng và nhiều kích thước khác nhau xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới trừ Úc và các đảo vùng thái bình dương. Mèo nhà, Felis catus, được thuần hoá ở vùng đông Địa Trung Hải 3000 năm trước đây và từ đó đi theo con người đến hầu hết mọi nơi trên thế giới và trở thành mèo hoang khi bị bỏ rơi. Mèo hoang gây tổn thất lớn đối với nhiều loài chim bản địa.

Tên thường gọi: mèo nhà, mèo hoang 

 

Capra hircus

Dê capra là các loài ăn thực vật và có thành phần thức ăn rất đa dạng. Dê ăn cả các loài cây mà cừu và các gia súc khác không ăn được do đó tác động mạnh đến thảm thực vật bản địa và các loài động vật bản địa sống nương tựa vào thảm thực vật đó. Dê capra cũng dễ dàng biến thành dê hoang và truyền bệnh cho các loài động vật bản địa.

Tên thường gọi: dê capra

 

Sciurus carolinensis

Sóc Nâu được nhập từ Nam Mỹ vào Anh, Ý, và Nam Phi làm vật cảnh. Ở Anh và Ý chúng gây ra sự tuyệt chủng tại chỗ của loài sóc đỏ bản địa. Dự báo chúng sẽ lan rộng từ vùng núi Anpơ đến một vùng Á Âu.

Tên thường gọi: Sóc Nâu  
 
Macaca fascicularis

Khỉ Macaca là loài bản địa thuộc vùng Nam Á. Chúng được du nhập vào Mauritius vào đầu những năm 1600 và với sự vắng mặt của các loài thú cạnh tranh và ăn thịt, chúng phát triển mạnh trên đảo này. Loài khỉ Macaca này gây ra những tổn thất đáng kể cho nông nghiệp và được coi là nguyên nhân góp phần làm tuyệt chủng nhiều loài chim rừng.

Tên thường gọi: Khỉ Macaca, Khỉ Móc cua

 

Mus musculus

Chuột nhắt ăn các bộ phận của cây bao gồm hạt, cành xanh và lá cũng như hầu như tất cả thức ăn của người và vật nuôi. Chúng gây ra những tổn thất ghê gớm, làm phá huỷ hoặc làm ô nhiễm nguồn thức ăn cho con người và cho chăn nuôi.

Tên thường gọi: chuột nhắt 

 

Myocastor coypus

Hải ly Nam Mỹ là một loài gặm nhấm lớn, sống nửa trên cạn nửa dưới nước có nguồn gốctừ Nam Mỹ. Tuy nhiên sau khi được xổng ra từ các trang trại nuôi lấy lông, chúng đã hình thành nên những quần thể hoang lớn ở Bắc Mỹ, châu Âu và Châu Á. Chúng đào hang và phá huỷ bờ sông, đê điều và hệ thống thuỷ lợi.

Tên thường gọi: Hải ly Nam Mỹ 

 

Sus scrofa

Lợn hoang là lợn nuôi bị xổng hoặc thả ra. Được du nhập vào nhiều nơi trên thế giới, chúng phá hoại mùa màng, tài sản và truyền nhiều loại bệnh. Lợn hoang xới tung thảm thực vật bản địa, làm lan truyền hạt, phá huỷ các quá trình sinh thái như diễn thế sinh thái và thành phần loài.

Tên thường gọi: Lợn hoang 

 

Oryctolagus cuniculus

Thỏ Oryctolagus cuniculus được du nhập vào hầu hết các lục địa trừ Nam Cực và Châu Á. Chúng thường được du nhập bởi Hội Thuần hoá Động vật vào hầu hết các quốc gia. Chúng đã phát triển rất nhanh vệ số lượng, ăn hại phá huỷ thảm thực vật, đào hang, làm tăng xói mòn đất.
Tên thường gọi: Thỏ Oryctolagus cuniculus

 

Cervus elaphus

Nai sừng tấm là loài nai có kích thước lớn nhất, chiều cao tính từ vai có thể lên đến 1,2m. Nai sừng tấm là một loài động vật nhai lại với thức ăn gồm rất nhiều loài thực vật khác nhau kể cả thân của các cây non. Tại những vùng có mật độ loài nai này cao, chúng gây ra tác động nghiêm trọng đến thảm thực vật và cản trở việc tái sinh tự nhiên của thảm rừng bản địa.

Tên thường gọi: nai anxet, nai đỏ, nai sừng tấm 

 

Vulpes vulpes

Cáo đỏ được nhập vào nhiều nước cho mục đích săn bắn giải trí nhưng đã nhanh chóng trở thành một loại địch hại do chúng có khả năng thích nghi với nhiều loại sinh cảnh. Cáo đỏ là loài ăn thịt và chúng ăn thỏ, chuột, cừu và dê non, chúng cũng ăn cả các loài động vật bản địa nhỏ.

Tên thường gọi: Cáo đỏ

 

Rattus rattus

Chuột đen có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ, hiện nay loài chuột này đã lan tràn trên khắpthế giới. Chuột đen ăn và phá hoại mọi thứ có thể ăn được. Chuột đen là một loài rất nhanh, thường hay leo lên ngọn cây.

Tên thường gọi: chuột đen  

 

BHerpestes javanicus

Loài cầy này vẫn được du nhập đến các hòn đảo trồng mía vùng nhiệt đới. Do có khả năng cạnh tranh lớn, Cầy nhỏ Ấn Độ đã làm nhiều loài động vật có xương sống bản địa bị tuyệt chủng, làm hại các loài vật nuôi và có nguy cơ là vật truyền bệnh.

Tên thường gọi: Cầy nhỏ Ấn Độ

 
 Mustela erminea

Chồn ecmin ngày nay được phân bố trên toàn thế giới do xổng ra từ các trang trại nuôi chúng. Chúng ăn chim, ăn trứng chim, và các loài thú nhỏ bản địa. Chúng đã bị săn bắt từ nhiều thập kỷ nay những số lượng vẫn rất nhiều.

Tên thường gọi: chồn ecmin

 

Ngày 07/01/2009
Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang
(Biên dịch và tổng hợp)
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích