TRANG CHỦ | Chủ nhật, ngày 24/11/2024 |
|
|||||||||||||||
|
Hình thái họcĐó là một loài ký sinh trùng nhỏ, hiếm khi vượt quá 40mm chiểu dài và 1mm chiều rộng. Một số tài liệu ghi nhận loài ký sinh trùng này chỉ là loài sán rất nhỏ, chỉ dài 10 - 25 mm với khoảng 100 đốt: mỗi đốt trưởng thành có chiều dọc khoảng 0,2 mm, ngang khoảng 0,9 mm. Ký sinh ở người, và con người vừa là vật chủ trung gian vừa là vật chủ vĩnh viễn. Có những loài tương tự ở thỏ, chuột. Điều trị tương tự như đối với các loài sán dây khác. Đầu scolex chống đỡ một các đầu có thể thụt vào rostellum vũ trang bởi một móc tròn với 20-30 móc. Các scolex cũng có 4 giác hút hoặc gọi là “tetrad”. Cổ dài và mảnh và các đoạn rộng hơn dài. Các lỗ sinh dục nằm phía bên và mỗi đoạn trưởng thành chứa 3 tinh hoàn. Sau khi apolysis các đoạn có chửa, ly giải ra trứng có đường kính 30-47µm. Các oncosphere được bao phủ bởi một lớp màng bên ngoài, trong suốt, mỏng và một màng bên trong dày với một cực kèm theo các sợi tơ nhỏ. Các túi phôi nặng cho các trứng có hình sọc và điểm này khác với các họ khác của các loài sán dây ký sinh và gây bệnh trên người.
| |
H. diminuta là một loại ký sinh trùng của các loài gặm nhấm và đòi hỏi một vật chủ trung gian là các côn trùng chân khớp. Các trứng bị tiêu hóa bởi các côn trùng động vật chân khớp sẽ phát triển thành ấu trùng cystercoid. Các loài găm nhấm bị nhiễm khi chúng ăn các động vật chân khớp và người nhiễm là tình cờ khi gặp phải cùng cơ chế. Các trứng của sán này bị nuốt phải bởi các côn trùng và trưởng thành theo chu kỳ như một "cysticercoid" trong côn trùng. Các loại bọ cánh cứng Tribolium confusum là một loại côn trùng tìm thấy nhiều trong các sản phẩm ngũ cốc, gồm có bột mì và bánh mì trong các nàh bếp của bạn. Các con bọ trưởng thành Tribolium spp., Tenebrio spp., có chiều dài khoảng 4mm và đóng vai trò như vật chủ trung gian của một số loài Hymenolepis spp.
Chu kỳ trực tiếp là có chắc chắn, và xảy ra theo mô hình có từ nguồn gốc tổ tiên là 2 vật chủ tìm thấy ở các loài hymenolepidid khác, vì cysticercoids của H. nana có thể vẫn phát triển bình thường bên trong các con bọ cánh cứng và các bọ chét. Một lý do để không bắt buộc trong chu kỳ là các cysticercoid của H. nana có thể phát triển ở điều kiện nhiệt độ cao hơn so với các hymenolepidids khác. Nhiễm trùng trực tiếp từ trứng là có thể con đường thường hay gặp nhất ở người, nhưng sự tiêu hóa tình cờ của các loại ngũ cốc, bọ cánh cứng, bọ chét là không thể loại trừ. Quá trình nhiễm trực tiếp các trứng tự do qua các vật chủ trung gian là côn trùng, khiến cho quá trình nhiễm nhanh hơn và sư lan rộng từ người - người có thể. Đời sống ngắnvà chu kỳ phát triển nhanh cũng góp phần vào sự lan rộng của bệnh sán này.
Hymenolepis nana, giống như các sán dây khác, chứa cả cơ quan sinh dục đực và cái trên mỗi proglottid. Điều này có nghĩa là sán dải lùn giống các sán dây khác là lưỡng tính (hermaphroditic). Một đoạn chứa 3 tinh hoàn và một buồng trứng. Khi có một proglottid già và không thể hấp thu thêm chất dinh dưỡng nào nữa, chúng sẽ bị ly giả và đào thải qua đường ống tiêu hóa. Các đoạnproglottid có chửa này chứa các trứng đã thụ tinh, đôi khi bị đuổi ra theo phân. Tuy nhiên, hầu như lúc nào trứng cũng có thểthích nghi với cấu trúc vi nhung mao của ruột non, đẻ trứng và ấu trùng có thể phát triển trưởng thành mà không cần rời vật chủ.
Sán dải lùn tương tự các lọa sán dây khác, chúng thiếu hệ tiêu hóa và ăn uống nhờ vào hấp thu chất dinh dưỡng vào trong thành ruột. Chúng có nhu cầucarbohydrate không đặc hiệu và dường như chúng sẽ hấp thu bất cứ cái gì đi qua ruột trong thời gian đó. Khi chúng trưởng thành, chúng sẽ dính vào thành ruột non và dùng các giác hút hoặc mở vòi răng ngoạm và có các segment vào trong các khoảng trống của ruột để hấp thu lấy thức ăn.
Con người trở nên nhiễm với H. nana khi họ ăn phải trứng nhiễm, hay gặp nhất là qua phơi nhiễm con đường phân miệng. Các trứng đi vào phần hồi tràng và rồi đẻ ra thành oncospheres (dạng ấu trùng), ấu trùng đi xuyên qua lớp lamina propria của vi nhung mao. Trong vòng 3-4 ngày, ấu trùng trưởng thành thành dạng cysticercoid, rồi đi vào lòng ruột dính vào thành hay nhung mao.Các con trưởng thành, kích thước 35-45mm dài và bao gồm 150-200 proglottid, sống khoảng 3 tuần. Chúng tự dính với nhau giữa các proglottids liền kề sinh ra hàng trăm trứng, một số đi xuyên qua nhung mao ruột và một số đào thải qua phân.
Đôi khi, các loài gặm nhấm có thể tiêu hóa phải trứng trong phân và đóng vai trò như vật chủ tình cờ và ổ chứa để lan rộng nhiễm bệnh. Mặc dù nhiễm trùng thường không sinh ra nhiễm trùng, chu kỳ tự nhiễm (thường xảy ra) và phơi nhiễm nặng cũng có thể dẫn đến nhiễm trùng không triệu chứng hoặc nặng hơn.
Nhiễm trùng với H. diminuta dẫn đến do tiêu hóa tình cờ các côn trùng nhiễm (các con bọ chét chưa trưởng thành, bọ cánh cứng, gián) mà chúng có thể mang ký sinh trùng vào trong khoang cơ thể. Các trứng bị nhiễm được tiêu hóa bởi các côn trùng và đẻ trong ruột của chúng. Sau khi đẻ, chúng xâm nhập vào trong khoang cơ thể và chuyển thành ấu trùng cysticercoid, gây nhiễm cho người. Sau khi các côn trùng bị ăn, ấu trùng bị ly giải trong thành ruột và trưởng thành trong vòng 25 ngày thành thể trưởng thành dài 50cm. Khi các con sán trưởng thành ly giả qua trứng, các vật chủ côn trùng có thể nhiễm. Và đặc biệt các trường hợp nhiễm đều không có triệu chứng.
Phần lớn ca bệnh nhiễm ký sinh trùng không xuất hiện triệu chứng. Tần suất các triệu chứng dường như có liên quan với gánh nặng hay mật độ sán trong cơ thể. Trong số trẻ em có biểu hiện triệu chứng lâm sàng thì biểu hiện thường không nghỉ yên, khó chịu trong người, kích thích, tiêu lỏng, đau bụng, rối loạn giấc ngủ, ngứa hậu môn và ngứa cả mũi hầu. Các triệu chứng hiếm gặp hơn là chán ăn, tăng thèm ăn (increased appetite), nôn mửa, buồn nôn, tiêu chảy phân máu, mày đay, đau mỏi chi, nhức đầu, chóng mặt, rối loạn hành vi và có thể có co giật. Ngoài các triệu chứng hiếm gặp ở trên, dấu hiệu đau bụng hoặc mày đay, khám thực thể đôi khi không rõ ràng.
Hymenolepis nana tự cư ngụ trong lòng ruột và hấp thu chất dinh dưỡng từ thành ruột. Trên người trưởng thành, các sán sẽ gây khó chịu hơn và cũng là vấn đề sức khỏe, nhưng ở các trẻ em nhỏ, nhiều H. nana có thể gây nguy hiểm. Thông thường ấu trùng của sán gây nhiều vấn đề cho trẻ, ấu trùng sẽ đào hầm trong thành ruột, nếu đủ sán trong thành ruột, sẽ gây nên các tổn thương có thể thành vết thương nặng. Điều này được làm do hấp thu tất cả chất dinh dưỡng từ thức ăn của trẻ. Thường một con sán đơn thuần sẽ không gây bất cứ nguy hiểm nào, nhưng trên các trẻ nhỏ, nhiều sán lại là vấn đề cần lưu ý. Hymenolepis nana thường sẽ không gây tử vong trừ khi nhiễm quá nặng và trẻ em nhỏ hoặc người suy giảm miễn dịch. Trên một số nơi trên thế giới, các đối tượng nhiễm nặng có thể dẫn đến hậu quả là chu trình tự nhiễm tái lập.
Các triệu chứng do phản ứng dị ứng hoặc nhiễm độc máu toàn thân (allergic responses or systematic toxaemia) gây ra do các sản phẩm thải của sán. Nhiễm nhẹ thường lại không óc triệu chứng gì. Nhiễm hơn 2.000 con sán có thể gây viêm ruột, đau bụng, tiêu lỏng, chán ăn, khó chịu, kích thích, ngứa mũi và ngứa hậu môn. Các triệu chứng hiếm gồm chán ăn, đau chi, tăng thèm ăn, nôn, đi đại tiện phân có máu, mày đay, rối loạn hành vi. Thỉnh thoảng có cơn co giật xảy ra trên các trẻ em.
Hiện có 3 loại thuốc dùng để điều trị bệnh Hymenolepiasis là Praziquantel, Niclosamide và Paromomycin. Praziquantel, là một thuốc diệt sán với liều duy nhất cho tất cả giai đoạn của sán và là thuốc lựa chọn vì chúng tác động rất nhanh vào cơ thể của sán H. nana. Mặc dù về mặt cấu trúc không óc liên quan đến các loại giun sán khác, song nó giết cả ấu trùng và sán trưởng thành.
Trong thử nghiệm In vitro thuốc sinh ra quá trình “không bào hóa” và làm phá vỡ cấu trúc vi vỏ tegument của phần cổ sán, nhưng không tác động mạnh hơn ở sau của đoạn mầm hay chuỗi đốt sán sinh sản (strobila). Praziquantel hấp thu và dung nạp tốt trong khi dùng đường uống, nó chuyển hóa pha đầu và 80% liều thuốc đào thải như các chất đã bị chuyển hóa vào trong nước tiểu trong vòng 24 giờ. Ddieuf trị hõ trợ có giá trị đi cùng với điều trị đặc hiệu. Trong một só ca nặng, cần tư vấn và hội chẩn với các chuyên gia hoặc nhà tiêu hóa để điều trị toàn diện, cần óc chế độ ăn uống cân bằng.
Riêng đối với nhóm thuốc Nitazoxanide gần đây cũng được nghiên cứu thử nghiệm như một lựa chọn điều trị mới.
Con đường chuyển hóa sinh hóa ký sinh trùng khác nhau giữa các vật chủ là người; do vậy, độc tính tác động lên ký sinh trùng, trứng và ấu trùng khác nhau. Cơ chế tác động khác nhau giữa các nhóm thuốc. Các tác động chống lại ký sinh trùng có thể gồm có:
·Sự ức chế lên cấu trúc vi ống, gây ra tắc nghẽn không hồi phục quá trình hấp thu glucose;
·Ức chế sự tổng hợp cấu trúc vi ống;
·Khử cực bloocs thần kinh cơ;
·Ức chế enzyme cholinesterase;
·Tăng tính thấm màng tế bào, dẫn đến mất ion calci nội bào;
·Sựu không bào trong cấu trúc vi quản của schistosome;
·Tăng tính thấm màng tế bào đối với ion chloride thông qua thay đổi kênh chloride.
Hiệu quả của thuốc Praziquantel đạt 80-100% trên các ca bất kỳ mật độ sán trong cơ thể như thế nào. Mặc dù, FDA chấp nhận và sẵn óc tại Mỹ, song nó cần được giám sát thuốc khi chỉ định.
Thuốc có hiệu quả nhưng không sẵn có tại Mỹ. Thuốc tác động thông qua cơ chế ức chế quá trình phosphoryl hóa trong hệ ty thể và ngăn cản hấp thu glucose của sán. Liệu trình điều trị 7 ngày vì nó không đạt được đến cysticercoids trong lớp mỏng của thành ruột.
Đây là một thuốc thay thế cho Praziquantel, nhưng đòi hỏi dùng liệu trình 7 ngày. Đây là một thuốc aminoglycoside diệt amip và diệt khuẩn (amebicidal and antibacterial) thu nhận được từ chủng Streptomyces rimosus, có hoạt tính lên các amip đường ruột. Thuốc còn được khuyến cáo dùng cho bệnh Diphyllobothrium latum, Taenia saginata, Taenia solium, Dipylidium caninum.
Thuốc ức chế sự phát triển của các sporozoites của đơn bào Cryptosporidium parvum cũng như các oocyst và điều trị cả tư dưỡng của Giardia lamblia. Hoạt tính ucar thuốc tác động nhờ vào can thiệp của phản ứng vận chuyển điện tử pyruvate-ferredoxin oxidoreductase (pyruvate-ferredoxin oxidoreductase (PFOR) enzyme-dependent electron transfer reaction), rất cần thiết cho chuyển hóa tạo năng lượng kỵ khí.
Dự phòng lây nhiễm phân qua đường thức ăn và nước uống trong các vùng dân sống đông đúc và khu vực đông dân cư là khâu quan trọng nhất và bước đầu trong phòng bệnh. Vệ sinh chung và phòng chống côn trùng, các loài gặm nhấm (đặc biệt bọ chét và côn trùng ăn ngũ cốc) cũng đóng vai trò cần thiết để phòng bệnh sán dải H. nana.
1.Chero JC, Saito M, Bustos JA, Blanco EM, Gonzalvez G, Garcia HH. Hymenolepis nana infection: symptoms and response to nitazoxanide in field conditions. Trans R Soc Trop Med Hyg. Feb 2007;101(2):203-5. [Medline].
2.Baron S., (1996). Medical Microbiology. (4th edition). The
3.Gerald D. Schmidt, John Janovy, Jr and Larry S. Roberts (2009). Foundations of Parasitology (8th ed). McGraw-Hil. ISBN 0073028274
4.R. D. PEARSON, and R. L. GUERRANT. Praziquantel: A Major Advance in Anthelminthic Therapy. Ann Intern Med, August 1, 1983; 99(2): 195 - 198.
5.World Health Organization (1995). WHO model prescribing information: drugs used in parasitic diseases (2nd edition). Published by World Health Organization. ISBN 9241401044
6.
7."Hymenolepiasis." http://health.allrefer.com. D.
8.http://www.stanford.edu/class/humbio103/ParaSites2002/hymenolepsis/transmission.htm
9.http://emedicine.medscape.com/article/998498-overview
Ngày 01/10/2010 |
Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang |
|
||||
|
|
|
|
|
|
| |
Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464 Email: impequynhon.org.vn@gmail.com Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng |
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích |