Ký sinh trùng ở biển Anisakis spp. gây bệnh cho người
Giới thiệuAnisakis, về mặt phân loại koa học thuộc giới Animalia, ngành Nematoda, lớp Secernentea, bộ Ascaridida, họ Anisakidae, giống Anisakis (Karl Rudolphi 1809) và gồm có những loài A. pegreffii, A. physeteris, A. schupakovi, A. simplex, A. typica, A. ziphidarum.Anisakis simplex và một số giun liên quan, Pseudoterranova (Phocanema, Terranova) giun trong hải cẩu, Contracaecum spp, Hysterothylacium (Thynnascaris) spp. Là các giun tròn Anisakid tìm thấy cũng óc nhiễm trên người do tiêu hóa các thực phẩm biển còn sống hoặc chưa nấu chín. Ngày nay, chỉ có A. simplex và P. decipiens là được báo cáo các ca bệnh nhiễm trên người ở vùng Bắc Mỹ. Bệnh Anisakis là một bệnh do giống giun tròn, có chu kỳ sinh học liên quan đến động vật có vú trên biển và cá. Nhiều từ đồng nghĩa hoặc thuật ngữ thường gọi là bệnh Anisakiases, Anisakiasis (rối loạn), Anisakiosis, Anisakis, nhiễm trùng Anisakis, bệnh giundo ăn cá trích (herring worm disease), nhiễm ấu trùng Anisakis,… Chúng nhiễm vào người và gây bệnh gọi là Anisakiasis, và cá đã nhiễm loài Anisakis spp. có thể sinh ra một phản ứng sốc phản vệ ở người mà đã có tiến sử nhạy cảm với Immunoglobulin E (IgE). Anisakis giai đoạn ấu trùng là các ký sinh trùng phổ biến của cá biển hoặc con cá đi ngược dòng sống để đẻ (anadromous fish), và cũng có thể tìm thấy trong các con mực ống hoặc mực nang (squid/ cuttlefish). Ngược lại, chúng không có mặt trong các cá sống trong nước nước có độ mặn thấp (salinity), do nhu cầu sinh lý của các loài Euphausiids, cần để hoàn chỉnh chu kỳ của chúng. Anisakids cũng không phổ biến ở các vùng có các động vật biển có vú (cetaceans) hay nói đúng hơn là hiếm gặp, như vùng biển bắc ở phía nam (southern North Sea_Grabda, 1976). Một số ký sinh trùng tên tương tự- Cod hoặc Seal Worm Pseudoterranova (Phocanema, Terranova) decipiens
- Contracaecum spp.
- Hysterothylacium (Thynnascaris) spp.
Bản chất của bệnh Anisakiasis Bệnh Anisakiasis nói chung được đề cập khi liên quan đến các bệnh cấp ở người được nghi ngờ. Một số tác giả theo ý tưởng bảo thủ có đưa ra tên bệnh với một tên khác (contracaeciasis) để ám chỉ đến bệnh, nhưng phần lớn được xem tên bệnh xuất phát từ gia đình. Phổ đa dạng lâm sàng với nhiều triệu chứng lâm sàng không lệ thuộc vào loài nhiễm của ký sinh trùng Anisakid qua một số ca được báo cáo đến nay. Về bản chất bệnh, tại Bắc Mỹ, bệnh Anisakiasis thường được chẩn đoán khi các cá nhân bị nhiễm cảm thấy ngứa như kim châm (tingling) hoặc cảm giác ngứa ngứa buồn buồn (tickling sensation) trong họng và ho hoặc có thể lấy giun ra bằng tay bình thường khi khạc ra. Trong các trường hợp nặng hơn, sẽ có xuất hiện đau bụng cấp giống như một cơn đau ruột thừa cấp đi kèm cảm giác buồn nôn. Các triệu chứng xảy ra từ một giờ đến vài tuần sau khi nhiễm phải mầm bệnh trong rau hoặc đồ hải sản nấu chưa chín (undercooked seafood). Một giun tròn có thể phục hồi sự sống trên bệnh nhân, với phần cuối cùng phía truớc của chúng, các giun tròn dạng ấu trùng này của giun từ trong cá hoặc các động vật biển có vỏ bao như sò, vẹm, tôm, cua, …thường chúng sẽ đào hầm trong đường tiêu hóa đến các lớp cơ niêm (muscularis mucosae) (đôi khi chúng cũng đi xuyên qua thành ruột hoàn hảo và chúng ta có thể tìm thấy chúng trong các khoang cơ thể. Chúng sinh ra các chất có thể hấp dẫn các bạch cầu ái toan đi đến và các tế bào máu của vật chủ khác đến vùng nhiễm này. Các tế bào thâm nhiễm vào vật chủ dạng u hạt (granuloma) trong các mô được bao quanh khi nhiễm giun. Trong thành của các đường tiêu hóa, giun có thể tách ra hoặc tái dính trở lại (detach and reattach) với một vùng khác nào đó trong ruột. Anisakids hiếm khi trưởng thành hoàn toàn trong người và thường bị loịa khỏi cơ thể một cách tự phát khỏi đường tiêu hóa trong vòng 3 tuần sau khi nhiễm. Các con giun chết trong các mô ngay cả sau khi bị loại khỏi các tế bào thực bào của vật chủ. Số ca được chẩn đoán và phát hiện hằng năm chỉ khoảng 10 ca mỗi năm ở Mỹ, song số ca nghi ngờ vẫn còn là chưa phát hiện hết. Bệnh lây truyền qua con đường ăn thịt sống, nấu không chín hoặc để đông lạnh không đủ để giết chết giun trong cá hoặc trong các thực phẩm biển có vỏ như sò, vẹm, tôm, cua,…và tỷ lệ này hiện đang gia tăng vì tăng số dân ăn thức ăn dưới dạng sushi và sashimi rất nhiều. Nhóm đối tượng chính (target population) gồm có những khách hàng mua các thực phẩm biển còn sống hoặc chưa được xử lý chín. Một số vụ dịch đã được tham khảo qua y văn cho biết bệnh này đầu tiên được biết trên một số ca riêng lẻ và rải rác. Nhật Bản là có số ca lớn nhất được báo cáo vì số lượng cá sống được tiêu thụ ở đây quá lớn. Một bức thư gần đây từ biên tập tại chí y học nổi tiếng New England Journal of Medicine trình bày cho biết khoảng chừng 50 trường hợp bệnh Anisakiasis đã được báo cáo tại mỹ gần đây. 3 ca tại San Francisco Bay liên quan đến tiêu thụ và ăn các món ăn sushi hoặc cá chưa nấu chín. Thông điệp thư cũng chỉ ra bệnh Anasakiasis dễ bị chẩn đoán nhầm với viêm ruột thừa cấp, bệnh Crohn, loét dạ dày hoặc ung thư dạ dày ruột. Hiện tại bộ gen của ký sinh trùng Anisakis sp. sẵn có từ cơ ở dữ liệu trong ngân hàng gen với mục GenBank Taxonomy database, chứa các tên của tất cả vi sinh vật được trình bày trong cây phả hệ di truyền và có ít nhất đã giải trình tự của chúng. Các hoạt động của FDA cũng khuyên tất cả các cá sống và thức ăn biển có vỏ như tôm, cua, sò, vẹm (hoặc ăn dạng nửa sống, nửa chín thì nên để nhiệt độ đông -35°C (-31°F) hoặc dưới trong 15 giờ hoặc để trữ lạnh đến - 20°C (-4°F) dưới 7 ngày là an toàn. Chu kỳ sinh học của Anikasis Anisakis spp. có một chu kỳ sinh học và phát triển khá phức tạp qua rất nhiều vật chủ để hoàn thành chu kỳ. Trứng đẻ ra trong nước biển và ấu trùng được ăn vào bởi các loài nhuyễn thể, thường là Euphausids. Các loìa nhuyễn thể bị nhiễm ấu trùng tiếp đó bị ăn bởi một loài cá hoặc mực ống và giun tròn đào hầm đi vào thành ruột và đóng kén trong một lớp áo bảo vệ, thường bên trên và ngoài của các cơ quan sống, nhưng đôi khi trong cơ và bên dưới da. Chu kỳ được hoàn thành khi một con cá bị nhiễm bởi một loài động vật có vú ở biển, như là cá voi, hải cẩu, cá heo. Giun tròn đóng kén trong ruột non, ăn chất dinh dưỡng và phát triển, bắt cặp với nhau và đẻ ra trứng vào trong nước biển trong phân của vật chủ. Khi ruột của một động vật có vú có chức năng giống như người, thì khi đó Anisakis spp. có thể nhiễm vào người do ăn phải các con cá nấu chưa chín hoặc sống khi chúng đã bị nhiễm. Tính đa dạng trong giống đã được biết đến ngày càng tăng hơn 20 năm qua, với các sựu kiện về tiến bộ trong lĩnh vực di truyền để xác định loìa ngày một tiến bộ. Người ta đã khám phá ra rằng mỗi loài vật chủ cuối cùng là nhà đối với riêng nó về mặt sinh học và về cả mặt di truyền trong việc xác định các loài đồng huyết thống (sibling species) của Anisakis spp., điều này làm được khi phân lập chúng. Các thử nghiệm này cho phép một tỷ lệ các loài đồng huyết thống trong một cá được sử dụng như một chỉ điểm xác định quần thể của cá. Về mặt hình thái học Qua kính hiển vi điện tử thấy phần miệng của Anisakis simplex (hình bên) Anisakids chia sẻ một số đặc điểm chung của tất cả các giun tròn; thể vermiform có hình tròn khi cắt ra và thiếu sựu phân mảnh hoặc phân đoạn. Khoang cơ thể là bị giảm và hẹp khoang tựa như một túi giả (pseudocoel). Miệng nằm ở phía trước và bao quanh bởi các phần lồi hoặc móc nổi (projections) dùng để lấy thức ăn và chịu trách nhiệm cảm giác, với phần hậu môn nằm thẳng góc phía sau. Lớp biểu mô có vảy (squamous epithelium) tiết ra một loại cutile có lớp để bảo vệ ocư thể khỏi dịch tiêu hóa. Vì với tất cả ký sinh trùng có một chu kỳ phức tạp liên quan đến nhiều vật chủ, chi tiết của hình thái học khác nhau tùy thuộc vào vật chủ và chu kỳ xảy ra bên trong vật chủ đó. Trong giai đoạn nhiễm vào trong những con cá, Anisakis được tìm thấy trong một vật thể hình nón (watch-spring coil). Chúng có chiều dài 2cm khi chúng không cuộn thành hình nón. Khi ở trong vật chủ cuối cùng, Anisakids lại dài hơn, dày hơn và cứng chắc hơn, để chống chọi với nguy hiểm môi trường của ruột động vật có vú. Các biến chứng và tác động trên cơ thể ngườiAnisakids gây nên nguy cơ bệnh cho sức khỏe con người, khi thành bệnh gọi là bệnh do Anisakids (Anisakiasis) và điều đó gây nguy cơ cho người theo hai con đường: thông qua nhiễm hiun từ cá không được xử lý thích hợp hay còn sống và thông qua con đường phản ứng dị ứng với các chất hóa học tiết ra bởi các phần thịt của cá bị nhiễm giun. Nhóm tác giả gồm Sung-Jin Choi, Jae-Chun Lee, Moo-Jung Kim, Gyu-Young Hur, Seung-Youp Shin, Hae-Sim Park đang công tác tại khoa Dị ứng và thấp học của đại học y khoa Ajou, Suwon, Hàn Quốc; khoa nội, đại học quốc gia Jeju, Hàn Quốc; khoa Tai mũi họng, đại học y khoa Kyunghee, Seoul, Hàn Quốc cùng tiến hành nghiên cứu cho biết ấu trùng Anisakidae có thể gây bệnh Anisakiasis khi người tiêu hóa phải chúng. Mặc dù một số nhóm đã báo cáo về dị ứng trong bệnh Anisakis trên đường tiêu hóa trong số những đối tượng người Tây Ban Nha và Nhật Bản, song báo cáo ở đây là lần đầu tiên tóm lượt các đặc điểm lâm sàng của 10 trường hợp nhiễm Anisakis dị ứng tại Hàn Quốc. Tổng số 10 bệnh nhân Hàn quốc (6 nam và 4 nữ) có trieụe chứng phàn nàn là dị ứng nghiêm trọng sau khi ăn phải cá sống hoặc thực ăn từ biển. Sự mẫn cảm với Anisakis được xác định bằng phát hiện kháng thể IgE đặc hiệu với Anisakis simplex trong huyết thanh các bệnh nhân. Các đặc điểm lâm sàng hay gặp nhất của bệnh Anisakiasis là ngứa, mày đay (100%), theo sau bởi đau bụng (30%) và sốc phản vệ (30%). Tất cả bệnh nhân cho thấy có triệu chứng cũng biểu hiện một lượng kháng thể cao là IgE trong máu (0.45-100 kU/L) đối với A. simplex. 9/10 bệnh nhân(90%) có biểu hiện atopy và tăng nồng độ IgE trong huyết thanh rất cao. Các loài cá nghi ngờ bị nhiễm loại ký sinh trùng Anisakis là flatfish (40%), cá lạc hay cá chình biển (40%), mực ống (30%), ốc biển (10%), cá ngừ (10%). Anisakis simplex nên được xem là một tác nhân gây diự ứng thực phẩm (food allergen) ở bệnh nhân người lớn khi óc biểu hiện mày đay, phù mạch, sốc phản vệ sau khi tiêu thụ các thức ăn biển còn sống hoặc nấu chưa chín. Sự phát triển của dị ứng thực phẩm đang ngày càng gia tăng liên quan đến tiêu thụ thức ăn trên phạm vi toàn thế thế giới. Tại Mỹ, khoảng 6% trẻ em và trẻ em nhỏ, 3.7% người lớn biểu hiện một số mức độ khác nhau về phản ứng dị ứng với một vài thực phẩm. Các thực phẩm chính nguyên trên trẻ em là sữa bò, trứng, đậu phụng, bột mì, hạt đậu, cá, các thức ăn biển có vỏ như tôm, cua, trai, sò, vẹm là các thực phẩm đứng đầu danh sách. Anisakis simplex là loại giun tròn thuộc bộ Ascaridida, họ Anisakidae, họ phụ Ascaridoidea. Bất kỳ cá hoặc loài động vật thâm mềm nào đều có thể bị ký sinh bởi ấu trùng giai đoạn 3 của Anisakis. Các loại cá thu, cá tuyết, cá meluc thuộc họ cá tuyết, cá trổng, cá mòi, cá ngừ, mực ống cũng là trong số các loài dễ nhiễm ký sinh trùng tần số cao nhất. Sự tiêu hóa hoặc ăn phải ấu trùng giia đoạn 3 của Anisakis có thể gây nên bệnh Anisakiasis ở người. Các triệu chứng của bệnh Anisakiasis tăng lên khi giun đi xuyên qua niêm mạc dạ dày, dẫn đến các triệu chứng thuộc vùng ổ bụng và phản ứng dị ứng. Van Thiel và cộng sự (1960) báo cáo ca đầu tiên về bệnh Anisakiasis, tại Netherlands năm 1960. Sau đó, nhiều trường hợp được báo cáo tại nhật Bản, Tây Âu là những nơi thường ăn cá sống. Kim và công sự (1971) cũng báo cáo một trường hợp ấu trùng Anisakis có mặt trong vùng hầu họng ở người như một ca bệnh đầu tiên tại Hàn Quốc. Tiếp theo đó, một số bệnh nhân bị bệnh Anisakiasis cấp và biểu hiện chủ yếu là triệu chứng dạ dày ruột như đau bụng, buồn nôn, nôn mửa đã được phân tích và làm rõ thông qua nội soi dạ dày tá tràng. Desowitz và cộng sự (1985) mô tả một phương pháp phát hiện kháng thể đặc hiệu IgE chống lại A. simplex. Từ thời gian đó, Kasuya và cộng sự cũng đã xác định tiềm năng gây dị ứng của A. simplex trên 2 ca lâm sàng và đã nhấn mạnh loại ký sinh trùng này là tác nhân gây bệnh liên quan đến ăn cá sống trên các bệnh nhân có nổi mày đay. Tại Hàn Quốc, Kim và cộng sự đã báo cáo ca bệnh đầu tiên Anisakiasis có dị ứng dạ dày ruột sau khi bệnh nhân ăn cá sống ở đảo Jeju, chưa có báo cáo nào đề cập đến phản ứng dị ứng do Anisakis, mặc dù người dân Hàn Quốc tự od ăn cá sống rất nhiều. Các triệu chứng phân biệt khi nhiễm các loài ký sinh trùng bởi ăn cá sống: các ký sinh trùng sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis, Anisakis và sán dải cá Diphyllobothrium. Tất cả tác nhân này khi nhiễm đều có thể cho triệu chứng về đường tiêu hóa, nhưng phân biệt là rất khó. Bệnh Anisakiasis là một bệnh gây ra bởi nhiễm giun Anisakis, thuờng được báo cáo tại các vùng nơi mà cá được ăn sống, hoặc chỉ là ướp sơ bộ qua muối. Các vùng có tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhất như Scandinavia (do sử dụng nhiều gan của cá tuyết), Nhật Bản (ăn thực phẩm biển dạng sushi và sashimi), Netherlands (do ăn các cá trích đã lên men), dọc theo đảo hoặc vùng ven biển Thái Bình Dương của Nam Mỹ (do ăn món cá sống ướp chanh). Hâm nóng ở nhiệt độ 60°C, hoặc để đông < −20°C là phương pháp hiệu quả giết chết các Anisakis. Trong còng vài giờ sau khi ăn phẩi ấu trùng nhiễm, cơn đau bụng độc lực do giun gây ra kèm theo đau bụng là buồn nôn, nôn mửa. đôi khi ấu trùng gây chúng ta ho. Nếu ấu trùng đi qua thành ruột vào trong ruột non, một phản ứng tăng sinh u hạt và tăng bạch cầu ái toan hình thành rất nặng và cũng óc thể xảy ra trong 1-2 tuần sau khi nhiễm, hoặc có thể gây nên các triệu chứng giống như bệnh Crohn. Việc chẩn đoán có thể thiết lập bằng nội soi dạ dày phát hiện ấu trùng dài 2cm, có thể lấy bỏ ra ngoài, hoặc có thể phân tích và xét nghiệm về mặt mô học thông qua sinh thiết hoặc trong quá trình phẩu thuật. Con người nghĩ rằng nguy cơ sẽ cao hơn nếu chúng ta ăn cá hoang dại hơn hơn là các nuôi khi nhiễm Anisakiasis. Nhiều quốc gia yêu cầu các loại cá có nguy cơ tiềm tàng mà dự định ăn sống nên để đông lạnh trước đó để giết sạch ký sinh trùng. Phản ứng dị ứng (Allergic reactions)Ngay cả khi nấu xong, Anisakis vẫn có nguy cơ sức khỏe đối với con người. Anisakids (và các loài liên quan như hải cẩu, Pseudoterranova spp., và Hysterothylacium aduncum) ly giải một số chất sinh hóa vào trong mô xung quanh khi chúng nhiễm vào một con cá. Chúng cũng thường được tiêu thụ toàn bộ, một cách tình cờ, bên trong fillet cá. Hình bên trên cho thấy ấu trùng (Anisakid larvae) trong khoang cơ thể của con cá trích (Clupea harengus). Con người dễ nhạy cảm với các loài giun tròn, có thể mắc phải bệnh và có những phản ứng sốc phản vệ nghiêm trọng sau khi ăn cá nhiễm Anisakis spp. Điều này thường nhầm lẫn với dị ứng với một con cá hoặc các động vật biển có vỏ (trai, sò, vẹm, cua, tôm), các thành phần dị ứng với Anisakids thường khó kiểm tra chúng và thường sinh ra phản ứng chéo khi test với các dị nguyên khác. Chẩn đoán bệnh ở người: Trong trường hợp bệnh nhân nôn hoặc ho ra giun, bệnh có thể được chẩn đoán dễ dàng bằng hình thái học của loại giun tròn (cần lưu ý loài giun đũa Ascaris lumbricoides, một loại giun tròn lớn ở người và là loài giun sống có liên quan đến mặt đất với loài giun anisakines và đôi khi các ấu trùng này cũng bò lên trên vùng mũi hầu). Một số trường hợp khác có thể đòi hỏi dùng đến một dụng cụnội soi cho phép các thầy thuốc kiểm tra trong dạ dày và phần đầu của ruột non. Các dụng cụ này được trang bị như một forceps có thể dùng để loại bỏ giun ra khỏi cơ quan đó. Một số trường hợp khác được chẩn đoán dựa vào các xét nghiệm tổn thương mô học chính là u hạt thông qua mổ thăm dò ổ bụng. một xét nghiệm cũng thường được dùng đặc biệt là radioallergosorbent test đối với bệnh anasakiasis, nhưng không có mặt trên thị trường. Nhóm tác giả gồm Sung-Jin Choi, Jae-Chun Lee, Moo-Jung Kim, Gyu-Young Hur, Seung-Youp Shin, Hae-Sim Park đang công tác tại khoa Dị ứng và thấp học của đại học y khoa Ajou, Suwon, Hàn Quốc; khoa nội, đại học quốc gia Jeju, Hàn Quốc; khoa Tai mũi họng, đại học y khoa Kyunghee, Seoul, Hàn Quốc cùng tiến hành nghiên cứu cho biết ấu trùng Anisakidae có thể gây bệnh Anisakiasis khi người tiêu hóa phải chúng. Mặc dù một số nhóm đã báo cáo về dị ứng trong bệnh Anisakis trên đường tiêu hóa trong số những đối tượng người Tây Ban Nha và Nhật Bản, song báo cáo ở đây là lần đầu tiên tóm lượt các đặc điểm lâm sàng của 10 trường hợp nhiễm Anisakis dị ứng tại Hàn Quốc. Tổng số 10 bệnh nhân Hàn quốc (6 nam và 4 nữ) có trieụe chứng phàn nàn là dị ứng nghiêm trọng sau khi ăn phải cá sống hoặc thực ăn từ biển. Sự mẫn cảm với Anisakis được xác định bằng phát hiện kháng thể IgE đặc hiệu với Anisakis simplex trong huyết thanh các bệnh nhân. Các đặc điểm lâm sàng hay gặp nhất của bệnh Anisakiasis là ngứa, mày đay (100%), theo sau bởi đau bụng (30%) và sốc phản vệ (30%). Tất cả bệnh nhân cho thấy có triệu chứng cũng biểu hiện một lượng kháng thể cao là IgE trong máu (0.45-100 kU/L) đối với A. simplex. 9/10 bệnh nhân(90%) có biểu hiện atopy và tăng nồng độ IgE trong huyết thanh rất cao. Các loài cá nghi ngờ bị nhiễm loại ký sinh trùng Anisakis là flatfish (40%), cá lạc hay cá chình biển (40%), mực ống (30%), ốc biển (10%), cá ngừ (10%). Anisakis simplex nên được xem là một tác nhân gây diự ứng thực phẩm (food allergen) ở bệnh nhân người lớn khi óc biểu hiện mày đay, phù mạch, sốc phản vệ sau khi tiêu thụ các thức ăn biển còn sống hoặc nấu chưa chín. Sự phát triển của dị ứng thực phẩm đang ngày càng gia tăng liên quan đến tiêu thụ thức ăn trên phạm vi toàn thế thế giới. Tại Mỹ, khoảng 6% trẻ em và trẻ em nhỏ, 3.7% người lớn biểu hiện một số mức độ khác nhau về phản ứng dị ứng với một vài thực phẩm. Các thực phẩm chính nguyên trên trẻ em là sữa bò, trứng, đậu phụng, bột mì, hạt đậu, cá, các thức ăn biển có vỏ như tôm, cua, trai, sò, vẹm là các thực phẩm đứng đầu danh sách. Anisakis simplex là loại giun tròn thuộc bộ Ascaridida, họ Anisakidae, họ phụ Ascaridoidea. Bất kỳ cá hoặc loài động vật thâm mềm nào đều có thể bị ký sinh bởi ấu trùng giai đoạn 3 của Anisakis. Các loại cá thu, cá tuyết, cá meluc thuộc họ cá tuyết, cá trổng, cá mòi, cá ngừ, mực ống cũng là trong số các loài dễ nhiễm ký sinh trùng tần số cao nhất. Sự tiêu hóa hoặc ăn phải ấu trùng giia đoạn 3 của Anisakis có thể gây nên bệnh Anisakiasis ở người. Các triệu chứng của bệnh Anisakiasis tăng lên khi giun đi xuyên qua niêm mạc dạ dày, dẫn đến các triệu chứng thuộc vùng ổ bụng và phản ứng dị ứng. Van Thiel và cộng sự (1960) báo cáo ca đầu tiên về bệnh Anisakiasis, tại Netherlands năm 1960. Sau đó, nhiều trường hợp được báo cáo tại nhật Bản, Tây Âu là những nơi thường ăn cá sống. Kim và công sự (1971) cũng báo cáo một trường hợp ấu trùng Anisakis có mặt trong vùng hầu họng ở người như một ca bệnh đầu tiên tại Hàn Quốc. Tiếp theo đó, một số bệnh nhân bị bệnh Anisakiasis cấp và biểu hiện chủ yếu là triệu chứng dạ dày ruột như đau bụng, buồn nôn, nôn mửa đã được phân tích và làm rõ thông qua nội soi dạ dày tá tràng. Desowitz và cộng sự (1985) mô tả một phương pháp phát hiện kháng thể đặc hiệu IgE chống lại A. simplex. Từ thời gian đó, Kasuya và cộng sự cũng đã xác định tiềm năng gây dị ứng của A. simplex trên 2 ca lâm sàng và đã nhấn mạnh loại ký sinh trùng này là tác nhân gây bệnh liên quan đến ăn cá sống trên các bệnh nhân có nổi mày đay. Tại Hàn Quốc, Kim và cộng sự đã báo cáo ca bệnh đầu tiên Anisakiasis có dị ứng dạ dày ruột sau khi bệnh nhân ăn cá sống ở đảo Jeju, chưa có báo cáo nào đề cập đến phản ứng dị ứng do Anisakis, mặc dù người dân Hàn Quốc tự od ăn cá sống rất nhiều. Các loại thực phẩm biển thường liên quan đến bệnh Các loại thực phẩm biển là nguồn chính gây nhiễm bệnh trên người do nhiễm phải ấu trùng giun. Các con trưởng thành của A. simplex thường tìm thấy trong dạ dày của cá heo hoặc cá voi Các trứng thụ tinh từ các ký sinh trùng cái đi ra khỏi phân của vật chủ. Trong nước biển, trứng thụ tinh, phát triển thành ấu trùng và đẻ ra trong nước biển. Các ấu trùng này tiếp đó nhiễm vào các loài giáp xác (nhất là các nghuyễn thể nhỏ liên quan đến tôm0 và các động vật không xương sống nhỏ khác. Ấu trùng phát triển trong các động vật không xương sống và trở thành thể gây nhiễm tiếp cho vật chủ tiếp theo như cá hoặc các động vật nhuyễn thể khác lớn hơn như mực ống. Các ấu trùng có thể đi xuyên qua đường tiêu hóa vào trong cơ của vật chủ thứ hai. Một số bằng chứng tồn tại đối với ấu trùng giun di chuyển từ tạng đến thịt nếu các vật chủ cá không không đẩy ra được. Chu kỳ của tất cả các con thuộc giống anisakid đều có liên can đến con người như nhau. Nhiều ký sinh trùng được biết đã xảy ra thường trong thịt của các con cá tuyết, cá thu, cá tuyết chấm đen, cá bơn, cá hồi Thái Bình Dương, cá trích, cá nhám,… Xét nghiệm các thực phẩm cá trên một bàn sạch và sáng được sử dụng để chế biến hoặc xử lý giảm bớt số lượng giun trong một số cá trắng được biết là thường bị nhiễm. Phương pháp này không phải là hoàn toàn hiệu quả, và nó cũng không phải là đủ hiệu qủa loại bỏ một lượng lớn giun trong cá. Bệnh nặng và các biến chứng Một số ca bệnh nặng của bệnh Anisakiasis thường đau rất dữ dội và đòi hỏi phải can thiệp phẩu thuật. Loại bỏ giun ra khỏi tổn thương là được biết chỉ là biện pháp làm giảm đau và loại bỏ nguyên nhân duy nhất (hơn là cách mà chúng ta phải đợi đến khi giun chết). Các triệu chứng hình như cũng có thể tồn tại sau khi giun đã chết vì một số thương tổn tìm thấy trong thời gian phẩu thuật đã loại bỏ giun nhưng còn tàn dư của giun ở đó. Làm hẹp ocư môn vị cũng đã được báo cáo trong trường hợp phẩu thuật mỏ ổ bụng lấy giun ra khỏi dạ dày. Thái độ xử trí và Điều trị hiệu quả?Đối với giun, con người là vật chủ cuối cùng, ấu trùng Anisakis và Pseudoterranova không thể sống sót trong ngườivà ngay cả chết. Do đó, việc điều trị trong những ca bệnh có triệu chứng, liều nhiễm nặng. Cần thận trọng khi chỉ định điều trị trong trường hợp tắc ruột non do ấu trùng Anisakis, trường hợp như thế cần phẩu thuật cấp cứu, mặc dù có một số trường hợp điều trị bằng Albendazole đơn thuần (tránh phẩu thuật) cũng được thành công nhưng không nên mạo hiểm (Pacios và cs., 2005). Tài liệu tham khảo1.For Chlonorchiasis: Public Health Agency of Canada/ Clonorchis sinensis-Material Retrieved on April 14, 2009 2.For Anisakiasis: WrongDiagnosis: Symptoms of Anisakiasis Retrieved on April 14, 2009 3.For Diphyllobothrium: MedlinePlus/Diphyllobothriasis Updated by: Arnold L. Lentnek, MD. Retrieved on April 14, 2009 4.For symptoms of diphyllobothrium due to vitamin B12-deficiency University of Maryland Medical Center > Megaloblastic (Pernicious) Anemia 2009. 5.Akbar A, Ghosh S (2005). "Anisakiasis–a neglected diagnosis in the West". Dig Liver Dis 37 (1): 7–9. 6.Lorenzo S, Iglesias R, Leiro J, et al. (2000). "Usefulness of currently available methods for the diagnosis of Anisakis simplex allergy". Allergy 55 (7): 627–33. 7.Mattiucci S., Nascetti G., Tortini E., Ramadori L., Abaunza P. & Paggi L (2000). "Composition and structure of metazoan parasitic communities of European hake (Merluccius merluccius) from Mediterranean and Atlantic waters: stock implications". Parassitologia 42 (S1): 176–86. 8.Sampson HA. Update on food allergy. J Allergy Clin Immunol. 2004;113:805–819. [PubMed] 9.Moreno-Ancillo A, Caballero MT, Cabañas R, et al. Allergic reactions to Anisakis simplex parasitizing seafood. Ann Allergy Asthma Immunol. 1997;79:246–250. 10.Van Thiel PH, Kuiper FK, Roskam RTH. A nematode parasitic to herring causing acute abdominal syndromes in man. Trop Geogr Med. 1960;12:97–113. 11.Kim CH, Chung BS, Moon YI, Chun SH. A case report on human infection with Anisakis sp. in Korea. Korean J Parasitol. 1971;9:39-43. 12.Desowitz RS, Raybourne RB, Ishikura H, Kliks MM. The radioallergosorbent test (RAST) for the serologic diagnosis of human anisakiasis. Trans R Soc Trop Med Hyg. 1985;79:256–259. 13.Kasuya S, Hanano H, Izumi S. Mackerel-induced urticaria and Anisakis. Lancet. 1990;335:665. 14.Kim SH, Kim HU, Lee JC. A case of gastroallergic anisakiasis. Korean J Med. 2006;70:111–1166. 15.Audicana M, Garcia M, del Pozo MD, etal. Clinical manifestations of allergy to Anisakis simplex. Allergy. 2000;55(S59):28-33. 16.Audicana MT, Ansotegui IJ, de Corres LF, Kennedy MW. Anisakis simplex: dangerous-dead and alive? Trends Parasitol. 2002;18:20–25. 17.Añíbarro B, Seoane FJ, Múgica MV. Involvement of hidden allergens in food allergic reactions. J Investig Allergol Clin Immunol. 2007;17:168–172. 18.Seol SY, Ok SC, Pyo JS, et al. Twenty cases of gastric anisakiasis caused by Anisakis type I larva. Korean J Gastroenterol. 1994;26:17–24. 19.http://www.wrongdiagnosis.com/fda_bad_bug_book/anisakis_simplex.htm 20.http://en.wikipedia.org/wiki/Anisakis 21.http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC2698627/
|