Độ nhạy và độ đặc hiệu trong thử nghiệm huyết thanh chẩn đoán bệnh giun sán ở người
Hiện nay, vấn đề bệnh nhiệt đới bị lãng quên (Neglected Tropical Diseases_NTDs) có vẻ đang trỗi dậy và xuất hiện ngày càng nhiều tại một số vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Một trong số các căn bệnh bị lãng quên đó là nhóm bệnh ký sinh trùng cũng góp phần không nhỏ, ảnh hưởng và gây thiệt hại nền kinh tế và sức khỏe của cộng đồng. Song một vấn đề làm thế nào để chẩn đoán và phát hiện một cách chính xác ca bệnh vẫn còn nhiều phức tạp và khó khăn vì các triệu chứng lâm sàng khá giống với một số bệnh lý nội khoa, truyền nhiễm và bệnh về da khác, xét nghiệm chuẩn vàng cho từng bệnh không phải lúc nào chúng ta cũng có thể thực hiện hoặc thực hiện nhưng không chỉ ra kết quả dương tính, nên một số bệnh ký sinh trùng nhờ đến xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán (như ELISA, EIA, IHA, RIA, IFA,.…) để gián tiếp chẩn đoán, song vấn đề độ nhạy, đặc hiệu, giá trị dự kiến âm tính, dương tính và tính chính xác của từng xét nghiệm vẫn còn bỏ ngõ và chưa có biện pháp khắc phục. Điều này đã không những dẫn đến chẩn đoán không đúng hoặc chẩn đoán quá mức, đôi khi dẫn đến dùng thuốc không cần thiết, tăng độc tính cho các cơ quan trong cơ thể. Liệu chăng, chúng ta nên đưa các tiêu chuẩn chẩn đoán theo một khung chẩn đoán cụ thể từng bệnh (bao gồm tiêu chuẩn lâm sàng, cận lâm sàng, tiêu chuẩn chính và phụ) để giúp các thầy thuốc lâm sàng dựa vào đó đưa ra quyết định điều trị cho bệnh nhân thấu đáo hơn. Bài tổng hợpdưới đây đưa ra một số dữ liệu dựa trên các bằng chứng y học qua nghiên cứu mà có để đánh giá về một khía cạnh nào đó khi dùng huyết thanh chẩn đoán bệnh ký sinh trùng nói chung và bệnh giun sán nói riêng.1. Phân tích phản ứng chéo xảy ra trong xét nghiệm ELISA kháng thể để phát hiện Trypanosomes có thể cải thiện việc xác định loài ký sinh trùng liên quan. Nhóm tác giả gồm M. Desquesnes, Z. Bengaly, L. Millogo, Y. Meme và H. Sakande cho biết trong một nghiên cứu tại châu Phi, các ký sinh trùng trypanosome trên gia súc là loại Trypanosoma vivax, T. congolense và T. brucei. Phân bố địa lý và vật chủ của 3 loài tương tự nhau rất nhiều. Tuy nhiên, vì chúng khác nhau đáng kể về mặt sinh bệnh học và dich tễ học, nên một loài sẽ có một test huyết thanh đặc hiệu cho chẩn đoán sẽ giúp cho vấn đề nghiên cứu dịch tễ học có ích hơn. Thử nghiệm chẩn đoán ELISA kháng thể (Ab-ELISA) đã được phát triển để phát hiện các loài Trypanosoma spp. thường gây nhiễm trên gia súc cho kết quả về độ nhạy rất hài lòng và độ đặc hiệu cho giống. Tiếc thay, chúng lại không đặc hiệu loài (species-specific) vì phản ứng chéo quá mạnh giữa các loài sinh bệnh của Trypanosoma spp. Trong nghiên cứu này tiến hành tại Burkina Faso, kết quả được chuẩn hóa bộ kit cho Ab-ELISA đối với T. vivax, T. brucei hoặc T. congolense được so sánh thông qua dùng 1.288 mẫu huyết tương từ cừu thực nghiệm bị gây nhiễm T. vivax , T. evansi và/ hoặc T. congolense. Nếu kết quả được phiên giải như thường lệ, chỉ sử dụng một ngưỡng dương tính, phản ứng chéo mạnh được thấy dẫn đến độ đặc hiệu theo loài trung bình (mean species-specificity) < 30%. Tuy nhiên, phân tích liên quan đến 3 type Ab-ELISA cho thấy phản ứng đồng nhất mạnh hơn các không đồng bộ đối với hầu hết nhiễm đơn và nhiễm phói hợp (lần lượt 98.3% và 99.0%). Trong các tình huống nhiễm đơn, nghiên cứu phân tích ngưỡng dương tính có độ đặc hiệu loài lên đến > 96%. Do đó, chúng ta có thể nhìn thấy kết quả Ab-ELISA có thể giúp nghiên cứu điều tra dịch tễ mạnh hơn cho bệnh trypanosome trên các động vật, dù kỹ thuật vẫn còn đánh giá giới hạn tỏng phạm vi gia súc. 2. Các kháng nguyên của Setaria digitata: phản ứng chéo với các kháng nguyên bề mặt củaWuchereria bancrofti Tác giả S. Dissanayake và M. M. Ismail đã tách chiết Setaria digitata phân đoạn bằng kỹ thuật sắc ký DEAE-Sephadex A50 và phân đoạn thu nhận sử dụng cho ức chế phản ứng IFA của ấu trùng giun chỉ Wuchereria bancrofti. Các phần đoan nhỏ cũng được thử bằng phản ứng ELISA đểđánh giá hoạt tính của chúng với các kháng thể trong huyết thanh bệnh nhân nhiễm W. bancrofti. Các kết quả chỉ ra S. digitata chứa một số phân đoạn kháng nguyên cho phản ứng chéo với huyết thanh giun chỉ. Hai trong số các phân đoạn đã phản ứng chéo với kháng nguyên bề mặt của W. bancrofti nhưng khi thử bằng kỹ thuật ELISA, các kháng nguyên này không cho thấy phản ứng cao với các kháng thể trong huyết thanh. 3. Phản ứng chéo huyết thanh từ các chuột nhiễm Toxocara canis với kháng nguyên Toxascaris leonina và giun đũa Ascaris suum Nhóm tác giả C. Cuéllar, S. Fenoy vàJ.L. Guillén thuộc khoa ký sinh trùng, đại học dược, đại họcComplutense, 28040 Madrid, Tây Ban Nha cho biết kết quả nghiên cứu dùng ELISA với sản phẩm tiết (excretory-secretory_E/S) và các chất tinh chiết từ các con Toxocara canis, Toxascaris leonina và Ascaris suum trưởng thành dùng để xác định phản ứng chéo có thể trong các con chuột BALB/c và C57BL/10, tiêm chủng vào các trứng có phôi hoặc chất chiết từ giun trưởng thành của T. canis theo liều duy nhất hoặc đa liều. Khi các nhà nghiên cứu sử dụng huyết thanh các con chuột nhiễm trứng đã thụ tinh của giun đũa chó mèo T. canis chống các kháng nguyên, họ đã thấy phản ứng chéo trong các con chuột BALB/c kháng lại kháng nguyên tiết A. suum và kháng nguyên tinh chiết từ giun trưởng thành với một liều duy nhất. Trong khi dùng đa liều thì lại không thấy chống lại T. leonina trong các chuột BALB/c và trên các chủng chống lại kháng nguyên tiết A. suum và chất chiết từ giun trưởng thành. Trong các con chuột BALB/c được tiêm bằng chất chiết từ giun trưởng thành của T. canis các nàh nghiên cứu đã không phát hiện ra phản ứng chéo với các kháng nguyên A. suum tiết khi tiêm đơn liều hoặc đa liều. Những phần còn lại của thực nghiệm họ dã phát hiện có phản ứng chéo ở các cường độ khác nhau. 4. Các tiếp cận chẩn đoán miễn dịch trong việc phát hiện chẩn đoán bệnh Taenia soliumNhóm tác giả Pierre Dorny, Jef Brandt và Stanny Geerts đang công tác tại khoa sức khỏe động vật, Viện Y học nhiệt đới Prince Leopol, Antwerpen, Bỉ cho biết các nghiên cứu gần đây trên Research Focus, Ito và Craig trình bày rằng: “huyết thanh học đáng tin cậy nhất để phát hiện bệnh cysticercosis trên người và động vật là phân tích đáp ứng kháng thể chống lại các kháng nguyên đặc hiệu T. solium”. Tuy nhiên, việc pháthiện các kháng nguyên lưu hành của Taenia solium cần lưu ý nhỏ trong bài nghiên cứu này vì các vấn đề liên quan đến hoạt tính dương tính chéo với các loài Taenia spp. khác. Các xét nghiệm phát hiện kháng thể, chẳng hạn, ELISA và kỹ thuật chuyển liên kết điện tử (Enzyme-linked immunosorbent assay [ELISA] / Enzyme-linked immunoelectrotransfer blot technique [EITB] là các công cụ phù hợp nhất để đánh giá phơi nhiễm với T. solium các điều tra huyết thanh học về lĩnh vực dịch tễ hay dịch tễ học huyết thanh (sero-epidemiological surveys) và đối với việc xác định T. solium như một tác nhân gây nên tình trạng động kinh. Ngược lại, các thử nghiệm phát hiện kháng nguyên có ích hơn trong một số mục đích khác như phát hiện bệnh cysticercosis giai đoạn hoạt động hoặc theo dõi các bệnh nhân ấu trùng sán lợn trên não (neurocysticercosis) sau khi điều trị. Mặc dù, các thử nghiệm ELISA phát hiện kháng thể đơn dòng sẵn có để phát hiện các kháng nguyên cysticercus lưu hành trong máu (Ag-ELISA) không có đặc hiệu loài và có thể phản ứng chéo với Taenia hydatigena trên lợn, điều này gây nguy hiểm cho việc chẩn đoán các bệnh lý cysticercosis ở người vì T. hydatigena không xảy ra trên người. Ít nhất có hai lọai Ag-ELISAsđã được đánh giá trong điều kiện thực địa và điều kiện phòng thí nghiệm, có một vài lợi điểm trong khi sử dụng các thử nghiệm Ag-ELISAs này để chẩn đoán bệnh cysticercosis ở người từ các mẫu huyết thanh thu thập được. Ag-ELISAs chỉ phát hiện các trường hợp bệnh cysticercosis đang hoạt động (như đang có thể cysticerci sống), điều này rất quan trọng để quyết định về liệu pháp điều trị bệnh ký sinh trùng một cách thích hợp (theo hướng dẫn đề ra bởi tác giả Garcia và cộng sự (2006). Các bệnh nhân chỉ có các nang sán canxi hóa, không cần thiết phải điều trị bằng thuốc ký sinh trùng, và xét nghiệm Ag-ELISA sẽ âm tính trước sau như một; điều này cũng được xác định trên mô hình thực nghiệm heo nhiễm chỉ thể cyst đã calci hóa rồi. Việc xác định T. solium xem như một tác nhân gây động kinh, các test phát hiện kháng thể sẽ phù hợ hơn các thử nghiệm Ag-ELISA vì các nang sán đã chết và thường bị quy kết là tác nhân gây động kinh và co giật hơn các nguyên do các nang còn sống (living cysts). Độ nhạy của của Ag-ELISA rất cao, thậm chí ngay cả trường hợp nhiễm nhẹ, chẳng hạn các thử nghiệm Ag-ELISA có thể phát hiện nhiễm đơn thuần cyst trong mô hình thực nghiệm ở heo. Test Ag-ELISA cũng rất đặc hiệu và không thấy có phản ứng chéo trong huyết thanh các bệnh nhân nhiễm các loại ký sinh trùng khác, như Schistosoma, hydatid cysts, Ascaris, Trichuris, filaria, Entamoeba, Plasmodium hoặc Trypanosoma. Các xét nghiệm Ag-ELISA cũng có hiệu quả như một công cụ theo dõi các bệnh lý ấu trùng sán lợn trên hệ thần kinh (neurocysticercosis) hoặc theo dõi các bệnh nhân đó sau điều trị vì các kháng nguyên lưu hành dường như biến mất trong vòng 1-3 tháng sau khi điều trị mà điều này lại không xảy ra đối với các bệnh nhân không được chữa khỏi. Các nghiên cứu dịch tễ học huyết thanh, phát hiện kháng thể có thiên hướng đánh giá quá mức (overestimate) tỷ lệ mắc bệnh (prevalence) của bệnh ấu trùng sán lợn cysticercosis vì các kháng thể không còn nữa trong vòng 1-3 năm trong số 30 - 40% số bệnh nhân dương tính với T. solium tại các quốc gia lưu hành. Điều này phản ánh một tình trạng phản ứng kháng thể thoáng qua trên các bênh nhân sau khi phơi nhiễm với trứng T. solium hoặc là một kết quả của quá trình tự chữa từ bệnh nhân. Nói tóm lại, việc ứng dụng các test phát hiện kháng thể hay kháng nguyên lệ thuộc vào sự hình thành là điều cần thiết. Một cách lý tưởng, khi phối hợp các 2 loại test là tốt nhất cho các điều tra về dịch tễ học miễn dịch và để hỗ trợ cho các chẩn đoán hình ảnh trên hệ thần kinh khi các bệnh nhân có bệnh lý nghi ngờ. 5. Vai trò của phản ứng ELISA dựa trên thử nghiệm proteine lai tái tổ hợp (RHP_recombinant hybrid protein) trong chẩn đoán bệnh do giun chỉ Onchocerca volvulusNhóm tác giả J A Andrews, W J Bligh, P L Chiodini, J E Bradley, P N Nde, R Lucius đang công tác tại khoa ký sinh trùng lâm sàng bệnh viện bệnh nhiệt đới, Mortimer Market, London, Anh Quốc và khoa ký sinh trùng của đại học Nottingham, Vương quốc Anh, khoa vi trùng và miễn dịch của đại học y Meharry, Nashville, Tennessee, Mỹ cùng khoa ký sinh trùng phân tử, đại học Humboldt, Berlin, Đức đồng tiến hành. Nhiễm trùng Onchocerca volvulus được chẩn đoán theokinh điển là xét nghiệm phẩu tích nhỏ ở da để tìm xem có sự xuất hiện của ấu trùng giun chỉ hay không? Một vấn đề bất lợi của phương pháp này là độ nhạy thấp khi cơ thể đang giai đoạn nhiễm tiềm tàng hoặc nhiễm nhẹ. Chẩn đoán huyết thanh học (serodiagnosis) sử dụngphương pháp dựa trên kháng nguyên tái tổ hợp có thể cung cấp một thử nghiệm chẩn đoán nhạy hơn. Thử nghiệm ELISA dựa trên kháng nguyên tái tổ hợp OvH3 trước đây đã được đánh giá thong qua các mẫu máu thu thập được tại các vùng lưu hành bệnh. Nghiên cứu này điều tra vai trò của thử nghiệm ELISA-dùng đẻ chẩn đoán huyết thanh bệnh giun chỉ onchocerciasis tại các vùng lưu hành. Với mục tiêu nghiên cứu là xác định các mẫu huyết thanh trên các bệnh nhân đã được chẩn đoán bị bệnh onchocerciasis và trên các bệnh nhân đã điều trị và chưa điều trị với chẩn đoán xác định và giả định có thể mắc phải bệnh onchocerciasistừ dữ liệu của chẩn đoán bệnh viện. Thử nghiệm cũng thử trên các mẫu huyết thanh lấy từ bệnh nhân nhiễm các loại giun sán khác để xác định độ nhạy và độ đặc hiệu của thử nghiệm này trong một so sánh có la bô tham chiếu thứ 3 với nhiều mẫu huyết thanh từ các bệnh nhân khác. Kết quả cho thấy độ nhạy và độ đặc hiệu của thử nghiệm OvH3 lần lượt là 93.2% và 93.5% khi thử trên các bênh nhân không thuộc vùng lưu hành bệnh với chẩn đoán lâm sàng là bệnh onchocerciasis. Nghiên cứu này cũng chỉ ra vai trò tiềm năng của thử nghiệm là một xét nghiệm vừa nhạy và đặc hiệu được dùng trong chẩn đoán bệnh onchocerciasis khi có la bô tham chiếu so sánh giữa các mẫu huyết thanh bệnh nhân tại các vùng có lưu hành và không lưu hành bệnh kiểm chứng.
|