Quan tâm đến việc phòng, chống giun tóc
Người bị nhiễm giun tóc do ăn phải trứng giun tóc có ấu trùng qua thực phẩm hoặc trẻ em tay bẩn mang trứng giun cho vào miệng. Trường hợp nhiễm nhẹ, gây nên những tổn thương không đáng kể. Trường hợp nhiễm nặng với hàng trăm con giun trưởng thành có thể gây hoại tử niêm mạc ruột, thâm nhiễm tế bào, tạo phản ứng viêm ở lớp niêm mạc ruột. Giun tóc cũng gây tiêu chảy do những tổn thương ở đại tràng, làm rối loạn quá trình tái hấp thu nước ở đại tràng. Đặc điểm của giun tóc Giun tóc Trichuris trichiura là một loại giun tròn ký sinh ở đường tiêu hóa của người. Loại giun này rất phổ biến ở những khu vực có khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm. Ở một vài nước nhiệt đới, tỷ lệ nhiễm giun tóc khá cao, có thể chiếm tới 90%; tỷ lệ nhiễm trung bình khoảng từ 30 đến 60%. Khi người nuốt phải trứng có ấu trùng giun vào trong ruột, chúng thoát khỏi vỏ ở ruột non rồi đi dần xuống đại tràng, manh tràng và phát triển thành giun trưởng thành tại đó. Thời gian từ khi nhiễm phải trứng giun cho tới khi giun tóc bắt đầu đẻ trứng mất khoảng một tháng. Giun tóc chỉ có một vật chủ là người, chúng cần giai đoạn phát triển trứng ở ngoại cảnh. Loại giun này không có chu kỳ chu du trong cơ thể vật chủ và nó có thể sống được trong người khoảng từ 5 đến 6 năm. Sự phân bố của giun tóc không có những thay đổi theo giới tính nam nữ và có tỷ lệ nhiễm xấp xỉ như nhau. Cũng như trứng giun đũa, trứng giun tóc được phân bố ở ngoại cảnh một cách tương đối tập trung ở trong nhà, quanh nhà và chung quanh các hố xí là những nơi trẻ em thường hay phóng uế bừa bãi. Khác với trứng giun đũa, trứng giun tóc có đặc điểm hình thể dễ nhận biết, các loại gia súc ít bị nhiễm giun tóc nên ít có sự lẫn lộn giữa giun tóc người và gia súc. Vì vậy, trên thực tế dễ dựa vào sự có mặt của trứng giun tóc ở ngoại cảnh để đánh giá mức độ ô nhiễm ngoại cảnh chính xác hơn là dựa vào sự có mặt của trứng giun đũa. Giun tóc có vòng đời sinh học đơn giản hơn giun đũa nên giun tóc khá phổ biến và phân bố rộng rãi ở các nước trên thế giới. Các biểu hiện khi bị nhiễm giun tóc Khi bị nhiễm giun tóc, các biểu hiện lâm sàng thường được ghi nhận với các triệu chứng tại chỗ và toàn thân. - Tại chỗ: giun tóc gây tổn thương niêm mạc đại tràng, kích thích các tổn thương ở đại tràng, gây nên các triệu chứng giống lỵ a míp. Các biểu hiện thường gặp là đau bụng, đi đại tiện nhiều lần trong ngày, phân ít, có lẫn chất nhầy và máu. Trong các trường hợp bị nhiễm nặng, giun tóc có thể ký sinh ở toàn bộ khung đại tràng; triệu chứng lâm sàng điển hình như có thể đi đại tiện từ 20 đến 30 lần trong ngày, bị mót rặn do tình trạng kích thích niêm mạc; gây biến chứng sa trực tràng khi bị viêm đại tràng nặng. Ngoài các tác hại nói trên, từ tổn thương niêm mạc ruột có thể dẫn đến hậu quả nhiễm trùng thứ phát, bội nhiễm vi khuẩn thương hàn, lao, tả, các loại vi khuẩn sinh mủ... thường hay gặp ở trẻ em. Giun tóc cũng có thể gây viêm ruột thừa nhưng tỷ lệ viêm ruột thừa do nhiễm giun tóc thấp hơn nhiều so với nhiễm giun kim. - Toàn thân: những người bị nhiễm giun tóc nặng mới có triệu chứng thiếu máu rõ và điển hình với số lượng hồng cầu dưới 1 triệu/ml máu; tỷ lệ huyết sắc tố dưới 40%. Bạch cầu giảm, bạch cầu ái toan tăng không đáng kể hoặc không tăng. Có thể có tiếng thổi tâm thu ở tim, người bị mệt mỏi, phù nhẹ. Các triệu chứng trên thường đi kèm với hội chứng lỵ. Tuy vậy, đa số các trường hợp nhiễm giun tóc không gây triệu chứng lâm sàng rõ rệt, điển hình. Chúng chỉ gây nên những tác hại đáng kể đối với trẻ em. Giun tóc thường bị nhiễm ở lứa tuổi nào? Giun tóc là loại giun phân bố khá rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới nhưng mức độ nhiễm giun khác biệt nhau tùy theo vùng. Do đặc điển sinh thái giống giun đũa nên sự phân bố của giun tóc tương tự như giun đũa. Những vùng có bệnh giun đũa đều có bệnh giun tóc. Những vùng đồng bằng, đông người, chật chội, có sử dụng phân người trong canh tác thì có tỷ lệ nhiễm giun tóc cao. Những vùng đồi núi thưa dân, có tỷ lệ nhiễm giun tóc thấp hơn. Cũng như bệnh giun đũa, bệnh giun tóc có ở mọi lứa tuổi nhưng tính chất nhiễm theo lứa tuổi khác nhau so với giun đũa qua những đặc điểm như: - Ở trẻ nhỏ dưới 1 tuổi hầu như không bị nhiễm giun tóc. Như vậy bệnh giun tóc không bị nhiễm sớm như giun đũa. Nguyên nhân có thể do giun tóc có mật độ khuyếch tán ngoại cảnh thấp hơn so với giun đũa. - Ở trẻ em từ 2 đến 3 tuổi vẫn có mức độ nhiễm giun tóc thấp chứng tỏ giun tóc thường nhiễm muộn. - Ở trẻ em trên 3 tuổi, bệnh giun tóc tuy tăng dần theo lứa tuổi nhưng không có hiện tượng tăng vọt đột biến. - Ở người lớn từ 35 đến 60 tuổi, bệnh giun tóc chưa có những biểu hiện giảm tỷ lệ bệnh. Điều này chứng tỏ do tình trạng kiến lập miễn dịch của giun tóc không đáng kể. Mặt khác, tuổi thọ của giun tóc dài hơn nhiều so với giun đũa nên bệnh khó tự khỏi và không có hiện tượng giảm bệnh tự nhiên theo tuổi. Nhà khoa học Smirnov cho rằng tuổi thọ của giun tóc kéo dài khoảng 6 năm nhưng căn cứ vào đặc điểm tỷ lệ bệnh còn cao ở những người nhiều tuổi và sự tái nhiễm không hoàn toàn dễ dàng nên có thể dự đoán tuổi thọ của giun tóc kéo dài hơn 6 năm. Chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh Chẩn đoán bệnh giun tóc thường dễ dàng vì dựa vào kết quả xét nghiệm phân tìm trứng giun tóc. Trứng giun tóc thường xuất hiện trong phân khoảng 2 tháng sau khi nuốt phải trứng giun. Có thể dùng phương pháp xét nghiệm phân trực tiếp. Trong các trường hợp xét nghiệm phân trực tiếp âm tính, có thể dùng các phương pháp tập trung trứng. Để đánh giá cường độ nhiễm giun tóc, thường dùng phương pháp Kato-Katz để định lượng. Khi bị nhiễm giun tóc, việc điều trị tương đối khó khăn vì cách thức bám của giun vào niêm mạc thành ruột. Các loại thuốc có hiệu lực thường được sử dụng là oxentel, mebendazole, albendazole... Nếu dùng dưới dạng uống phải dùng loại viên bọc gelatine vì thuốc có thể làm bỏng niêm mạc miệng, do đó thận trọng khi dùng cho trẻ em. Giun tóc có nguồn bệnh duy nhất là người, mầm bệnh là trứng giun tóc. Chúng lây truyền theo đường tiêu hóa do nuốt phải trứng giun có ấu trùng ở giai đoạn lây nhiễm. Biện pháp phòng, chống giun tóc gần giống như đối với giun đũa. Thông thường việc phòng, chống giun tóc không được thực hiện riêng mà thường kết hợp với phòng, chống giun đũa vì đặc điểm sinh học của nó giống giun đũa.
|