Home TRANG CHỦ Thứ 7, ngày 07/09/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 3 4 9 6 5 0 7
Số người đang truy cập
6 2
 Chuyên đề
Những điểm mới về thể ngủ (hypnozoites) của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax và Plasmodium ovale

Nguồn gốc của thuật ngữ "hypnozoite" hay “thể ngủ”

Thuật ngữ thể ngủ xuất phát từ gốc từ Hy Lạp, với hypnos (ngủ) và zoon (động vật). Thể ngủ (“hypnozoites”) là các thể ngủ trong chu kỳ sinh học của một số đơn bào ký sinh trùng thuộc ngành Apicomplexa (Sporozoa) và được biết nhiều nhất về mối liên quan có thể với sự tiềm tàng ngấm ngầm trong nhiễm trùng sốt rét ở người gây ra bởi Plasmodium ovaleP. vivax. Do đó, các thể ngủ là một trong những tầm quan trọng và có ý nghĩa về mặt y học và sinh học. Ngược lại, điều này làm cho nguồn gốc của tên gọi "hypnozoite" một đối tượng đáng quan tâm. Một số bỏ sót của lịch sử giờ đây đã được thay thế và chỉnh sửa (gồm một lá thư được viết bởi P. C. C. Garnham, FRS) cho thấy rằng Miles B. Markus tạo ra thuật ngữ "hypnozoite". Trong khi nghiên cứu sinh ở trường Imperial College London, anh ta đã tiến hành nghiên cứu và dẫn đến việc xác định một thể hình như ngủ của Cystoisospora (đồng nghĩa: Isospora). Vào năm 1976, anh ta nghiên cứu suy xét : “Nếu các thoi trùng của isospora có thể hoạt động theo cách thức này, thì điều đó có liên quan đến sporozoa, giống như ký sinh trùng sốt rét, có khả năng sống sót trong các mô tương tự theo cách này. Thuật ngữ "hypnozoite" đối với sốt rét vào năm 1978 khi tác giả viết một số thông tin ít ỏi biết được trên tạp chí tên này và mô tả bất kỳ thoi trùng ngủ (dormant sporozoites), các giai đoạn giống như thoi trùng trong chu kỳ của Plasmodium hay các Haemosporina khác. Vào thời điểm đó, sự tồn tại của một thể ngủ trong chu kỳ Plasmodium vẫn còn là một điều đáng chú ý về mặt lý thuyết. Tuy nhiên, vào năm 1980 Wojciech A. Krotoski ấn bản (cùng với một số tác giả khác) chi tiết vê khám phá của ông sự thật những gì biết được đối với thể ngủ sốt rét.
 

Thể ngủ và hiện tượng tái phát (relapse)

Các thể ngủ là những tế bào đơn nhân (uni-nucleate cells) tìm thấy trong các tế bào gan và là các thể tư dưỡng thật sự (in fact trophozoites), sự phát triển của chúng đã bị gián đoạn. Các thể ngủ (hypnozoites) rất khó xác định qua các mẫu bệnh phẩm nhuộm thường quy; Điều này có thể dẫn đến một lý giải tại sao mà giai đoạn này trong chu kỳ vẫn chưa được hiểu thấu đáo mãi đến năm 1980, khi mà các thể ngủ lần đầu tiên được xác định nhờ vào các phương pháp hóa mô miễn dịch phân tích.

Hình dưới đây cho thấy các mô hình tái phát khác nhau trong điều kiện thực nghiệm được quan sát trên các loài linh trưởng với các phân lập Plasmodium vivax khác nhau: (a) P. v. hibernans hay chủng Moscow; (b) chủng P.v. Bắc Triều Tiên (North Korean strain); (c) chủng P. v. Madagascar và (d) chủng P. v. Chesson [Adapted from P.C.C.Garnham, 1988, in "Malaria: principles and practice of malariology" Eds WH Wernsdorfer and I McGregor, pp 61-96]
  

Các chủng khác nhau của ký sinh trùng có mô hình đặc tính riêng biệt về tái phát: một số chủng tái phát một tháng sau khi cơn nhiễm trùng đầu tiên tấn công (vì điều này được quan sát tại hầu hết các chủng ký sinh trùng vùng nhiệt đới), trong khi các loại tái phát khác chỉ 6 tháng đến 1 năm sau. Trên một số chủng (chẳng hạn P. vivax hibernans), tất cả các thoi trùng nhiễm chuyển dạng thành thể ngủ và chính cơn đầu tiên có thể bị chậm lại đến 1 năm hay dài hơn. Một đặc điểm của ký sinh trùng tìm thấy trong các vùng ôn đới hơn các vùng nhiệt đới và có thể có sự thích nghi để sống sót trong suốt nhiều tháng mùa đông kéo dài khi sự lan truyền không thể xảy ra.

Trên các loài Plasmodia ở chim, giai đoạn ngoài hồng cầu xảy ra trong những tế bào của hệ thống lưới nội mô và các merozoites gia tăng lên từ các tế bào này có thể sinh ra nhiều làn sóng hơn nữa của sự phát triển ngoại hồng cầu này. Đặc điểm này không tồn tại trên các loài Plasmodia ở động vật có vú và giờ đây nhìn chung, các merozoites nảy sinh từ chu trình schizogony ngoại hòng cầu chỉ có thể xâm nhập vào các tế bào (chẳng hạn, chúng không thể xâm nhập vào các tế bào gan khác và không thể sinh ra làn sóng thứ hai của schizogony ngoại hồng cầu).
 

Một nghiên cứu khác tiến hành và công bố về tình trạng ngủ của sốt rét trên các động vật có vú (Markus MB và cs., 2012) đăng tải trên tạp chí Trends Parasitology. Họ thực hiện tại trường đại học Witwatersrand, Johannesburg, Nam Phi. Phân tích này quan tâm chính đến các khía cạnh sinh học của các thể ngủ do sốt rét trên các động vật có vú, với tham chiếu đặc biệt đến thể ngủ trong gan. Nghiên cứu cần thể hiện những gì xảy ra đối với thể thoi trùng của Plasmodium cynomolgi giữa thời điểm bị đốt do muỗi và khi thể ngủ lần đầu tiên được nhìn thấy trong gan là 36 - 40 giờ sau đó. Có thể rằng các thể ngủ của ký sinh trùng sốt rétgây tái phát sẽ chứng minh bắt nguồn trực tiếp từ thoi trùng hơn là từ merozoite.
 

Có bằng chứng gián tiếp cho rằng ngược với những gì nhìn chung là không thật, sự tái hoạt thể ngủ có thể không chỉ gây nên hiện tượng tái xuất hiện của ký sinh tùng sốt rét Plasmodium vivax. Các giai đoạn sau đó coh thấy đưa một mối đe dọa đến sự thành công trong việc tiệt trừ sốt rét; vì thế một số đề nghị để làm sáng tỏ các thể ngủ và các merozoites yên lặng.

Khái niệm về thể ngủ, một vấn đề đặc biệt liên quan đến sốt rét gần đây cũng đã đăng tải trên y văn Parasitol Res. 2011 Jan;108(1):247-52. Vào năm 1978, bản chất của thể ngủ được thảo luận trên một bài báo và cũng từ đó thuật ngữ “ngủ” ra đời đối với Plasmodium (một sự thật ít được biết đến). Như một kết quả, việc sử dụng từ "hypnozoite" hầu như sử dụng hơi quá sau đó. Mặc dù ấn bản giờ đây đã hơn ba thập kỷ, song phân tích vẫn còn giá trị đến ngày hôm nay.

Người ta giải thích bài báo hiện tại này giống như merozoite và sporozoite, tên gọi hypnozoite được áp dụng không chỉ đối với một giai đoạn tiềm tàng trong chu kỳ của Plasmodium mà còn đến các thể ngủ của các loại ký sinh trùngthuộc apicomplexa. Merozoites của các giống đơn bào khác không cần chu trình sinh học tượng tự hay ngược lại. Tương tự, dù khái niệm thể ngủ liên quan đến giai đoạn tiền merozoite (pre-merozoite stages), một số thể apicomplexan hậu phân chia không điển hình cũng có thể là thể ngủ. Cuối cùng các thể ngủ của plasmodia được đặt trong bối cảnh liên quan tương đối đến bradysporozoite sốt rét, chronozoite, dormozoite, merophore, merosome và x body. Bài báo này dựa trên bài trình bày bởi tác giả như một Life Member of the American Society của Hội nghị thường niên Tropical Medicine and Hygiene lần thứ 59 tại Atlanta, Georgia, Mỹ năm 2010.
 

Có thể sử dụng xét nghiệm PCR trong mẫu máu để xác định có mặt thể ngủ không?

Có một tác giả cho rằng, anh ta chưa bao giờ được chẩn đoán sốt rét nhưng anh ta trở về từ vùng sốt rét lưu hành P. vivax ở Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 2007 (vùng lưu hành P. vivax là Diarbykar và Mardin). Triệu chứng biểu hiện mắc sốt rét tồn tại và giờ đây đã có 5 lần tái phát kể từ đó, trung bình một năm bị một lần. Giờ đây, anh ta đã suy chức năng thận và không chắc chắn là chẩn đoán do sốt rét? Như vậy, liệu chúng ta có thể sử dụng test PCR ở máu bệnh nhân ở bất kỳ thời điểm nào như một lựa chọn để loại trừ sốt rét và xác định tái phát thật sự không?

Bạn có thể đúng khi nghĩ rằng PCR là phù hợp nhất để xác định trong suốt tái phát hoạt động; trong khi ký sinh trùng sốt rét ngủ trong gan, chúng thật sự khó để phát hiện. Một lựa chọn để điều tra tính khả thi thực hiện kiểm tra các kháng thể đối với ký sinh trùng P. vivax. Các test này thường được coi như là ELISAs (enzyme-linked immunosorbent assays) và chúng đôi khi có thể có ích để kiểm tra sốt rét giữa những lần tái phát không? Vì kháng thể của bạn sinh ra chống lại ký sinh trùng sốt rét trong suốt pha tái phát có thể nằm trong máu vài tuần, thậm chí có vài tháng đến vài năm. Điều này cũng có nghĩa khó có thể áp dụng sinh học phân tử vào việc phát hiện thể ngủ trong gan. Do đó, các test này không có hiệu quả đối với những người đang sống trong vùng sốt rét lưu hành nhưng đối với những người du lịch đã phơi nhiễm một số lần thì test này có thể xác định nhiễm sốt rét do P. vivax; đi cùng với tiền sử lâm sàng, điều này sẽ cung cấp bằng chứng mạnh mẽ cho bác sĩ rằng bạn có thể cần thảo luận khả năng dùng primaquine, thuốc có thể giết thể ngủ và ngăn ngừa tái phát.
 

Bằng chứng nào nói lên có sự tồn tại thể ngủ của P. ovale? Sốt rét tái phát liên quan đến tác nhân Plasmodium vivax and Plasmodium ovale. Sự tái phát do P. vivax bắt nguồn từ các giai đoạn trong gan ngủ: “hypnozoites”. Cũng như vậy, P. ovale là một loài được xem là có liên quan chặt chẽ đến P. vivax, là một thể tương đồng của thể ngủ. Tuy nhiên, một mối liên quan sinh học chặt chẽ không được đồng thuận thông qua các nghiên cứu sinh học phân tử. Do đó, y văn ấn bản mô tả loài P. ovale vào năm 1922 được sàng lọc một cách hệ thống cho thấy thể ngủ hay bằng chứng chi tiết đối với sự tồn tại thể ngủ của chúng, chẳng hạn sự xuất hiện của tái phát thật sự. Trong nhiễm trùng P. ovale, các thể ngủ chưa bao giờ được mô tả thông qua các thử nghiệm sinh học và một số báo cáo ấn bản về tái phát vẫn còn coh kết quả xung đột.

Thất bại trong việc phát hiện thể ngủ trong mô gan chứa thể ngoại hồng cầu schizonts của Plasmodium knowlesi qua một thử nghiệm. Các phân đoạn và mảnh cắt nhu mô gan của khỉ Rhesus đánh dấu paraffin chứa nhiều thể phân liệt ngoại hồng cầu của loài ký sinh trùng sốt rét không gây tái phát Plasmodium knowlesi được xét nghiệm kiểm tra xem sự có mặt của thể ngủ nhờ vào phản ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp (IFA_indirect immunofluorescence), tiến hành trên cả các mẫu huyết thanh tương đồng và không tương đồng có phản ứng chéo mạnh. Không có thể ngủ hoặc các thể tương tự như thể ngủ trong mô thông qua phép loại suy với các kết quả thu thập được đối với các loài gây tái phát, P. cynomolgi bastianellii, chứa 35-50 thể đơn nhân. Các quan sát này hiện là các bằng chứng bổ sung trong lý thuyết thể ngủ của tái phát sốt rét.

Tài liệu tham khảo
1.Markus MB et al., (2011), “Malaria: origin of the term "hypnozoite", J Hist Biol. 2011 Winter;44(4):781-6.
2.Markus MB et al., (2012), “Dormancy in mammalian malaria”, Trends Parasitol. 2012 Feb;28(2):39-45.
3.Markus MB et al., (2011), “The hypnozoite concept, with particular reference to malaria”, Parasitol Res. 2011 Jan;108(1):247-52.

Ngày 20/05/2013
PGS.TS. Triệu Nguyên Trung, Ths.BS. Huỳnh Hồng Quang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích