Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 22/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 1 6 9 5 2 9
Số người đang truy cập
4 8 7
 Chuyên đề Sán lá gan
Tiếp cận phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở người và động vật nuôi thế nào cho hiệu quả

            Hiện nay, bệnh sán lá gan lớn (SLGL) do loài ký sinh trùng Fasciola spp. được ngành y tế cũng như người dân đặc biệt quan tâm vì chúng không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe con người, mà còn gây thiệt hại đối với ngành kinh tế chăn nuôi gia súc và một số vật nuôi.

Liên quan đến cách phòng bệnh, phòng chống bệnh SLGL được thiết kế nhằm loại bỏ hoặc giảm tỷ lệ mắc bệnh và gián tiếp nâng cao khả năng sinh sản của gia súc (trong kinh tế nông nghiệp). Loại trừ bệnh SLGL cho gia súc thật khó, do vậy hạn chế nhiễm bệnh bằng cách hạn chế tối đa thiệt hại kinh tế, sử dụng các biện pháp phòng chống hiệu quả và quản lý tốt ca bệnh. Tương tự như các bệnh sán giun khác trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, việc phòng chống giun sán là cắt đứt một trong các khâu trong mắc xích chu kỳ phát triển của chúng. Song, việc này không hề đơn giản mà vấn đề làm sao để chọn được mắc xích ngăn chặn đúng, nhanh, hiệu quả kinh tế cao. Can thiệp vào mắc xích có các khâu sau:

 

- Chống phát tán trứng ra môi trường xung quanh bằng quản lý phân [1],

- Chống vector truyền bệnh giun sán thông qua việc diệt vật chủ trung gian ốc, phá bỏ ổ ốc cư trú [2] nhưng biện pháp này không thực tế;

Cuối cùng là chống nhiễm bệnh bằng cách không ăn cây thủy sinh chưa nấu chín, làm sạch [3]. Như vậy, giải quyết mầm bệnh bằng điều trị thuốc đặc hiệu cho bệnh nhân là cần thiết và cùng với bộ phận thú y điều trị cho súc vật mang mầm bệnh.

Chiến lược phòng chống bệnh sán lá gan hiệu quả là cải thiện môi trường, thay đổi hoạt động nông nghiệp, tưới tiêu sao cho hợp vệ sinh. Phòng chống bệnh sán lá gan lớn có thể dùng thuốc chống sán. Việc đưa truyền thông giáo dục sức khỏe vào cộng đồng, khuyên người dân nên ăn chín uống sôi đồng thời diệt mầm bệnh bằng cách điều trị bệnh nhân bằng thuốc điều trị đặc hiệu.

Vì sự nhiễm trùng ở vật nuôi phụ thuộc vào 2 yếu tố: lượng mưa và nhiệt độ. Với mỗi vùng riêng biệt có số liệu thời tiết có thể giúp diều trị bệnh sán một cách hiệu quả theo thời gian. Song ở vùng Đông Nam Á, vì điều kiện thời tiết có lượng mưa và nhiệt độ tương đối cao, điều này đã làm giảm hiệu quả phòng chống bệnh. Tuy nhiên, nếu sau mỗi mùa vụ thu hoạch xong, chúng ta cho gia súc ăn lúa gạo sót lại thì giảm tỷ lệ bệnh cũng đáng kể, đồng thoèi chúng ta làm giảm loài ốc trung gian truyền bệnh, vấn đề này được thực hành ở Indonesia, nhất là vùng Java, nhưng đến nay hiệu quả vẫn chưa được công bố. Trước tiên, chúng ta muốn tổng quát một cách rất sơ lược, song rất hội đủ ý nghĩa: con người có thể ngăn ngừa nhiễm bệnh bằng cách không uống nước chưa được đun sôi hoặc nước không được lọc, không ăn gan sống và các loại rau không được rửa sạch hoặc không được nấu chín. Các biện pháp phòng chống ốc không có hiệu quả kinh tế. Ngăn ngừa và phòng chống bệnh sán truyền qua thức ăn là có thể thực hiện được thông qua các biện pháp an toàn thực phẩm (nấu và rửa đúng cách ca, thịt và rau), tránh làm nhiễm bẩn môi trường với chất thải. Chẳng hạn, việc thả phân chưa xử lý xuống ao ở Trung Quốc là một nguyên nhân chủ yếu gây nhiễm các loài sán lá. xử lý trước phân trong thùng để diệt trứng và các tác nhân gây bệnh khác làm giảm tỷ lệ mắc mới các bệnh sán một cách đáng kể.

 

Qua một vài nghiên cứu cho thấy ấu trùng metacercariae dính rất chặt ở cải xoong (mọc ở suối và ao, hồ) và nguồn nhiễm khác như các loài cây có nhiều lớp, có lớp mucoprotein và mucopolysacharides trung tính và acide bảo vệ. Muốn diệt được metacercariae thì thường dùng dung dịch hypochloride. Hiệu quả nhất là nấu chín các loại rau trước khi ăn. Vì thực vật thuỷ sinh trong các thuỷ vực như rau ngổ, củ ấu, mùi tây, rau diếp cá, rau húng,... chúng ta nên vớt thực vật thuỷ sinh, làm mất nơi trú ẩn của ấu trùng, nên chúng dễ bị sinh vật khác tấn công và tiêu diệt. Đồng thời, vớt thực vật thuỷ sinh làm cho mặt nước không được che phủ, do đó nhiệt độ mặt nước tăng lên do bị ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp và ấu trùng của sán không có thể phát triển, hoàn thành chu kỳ được hoặc ít nhất không phát triển thành ấu trùng metacercariae.

Không ăn thịt, gan, lòng của các gia súc nói trên khi chưa được xử lý kỹ. Trong các ruộng trồng rau nên diệt các loài ốc, không sử dụng phân tươi của người và gia súc để bón. Trong vùng lưu hành bệnh SLGL, nếu muốn dùng các loại rau này, chúng ta không nên ăn sống và nhớ rằng nếu rửa bằng nước máy hoặc nước giếng không giết được metacercariae, nước uống phải đun sôi ít nhất 1 phút hoặc uống nước tinh khiết đã qua xử lý bằng tia cực tím.

Nói chung, giáo dục sức khoẻ toàn dân hành động ngay thói quen ăn chín, uống sôi là phương pháp hiệu quả phòng ngừa bệnh.

Y tế công cộng và chiến lược dự phòng (Public Health and Prevention Strategies)

Ngoài việc phát hiện ca bệnh và điều trị người bệnh tại cơ sở y tế ở tuyến đầu, cần phait thực hiện các biện pháp để giảm hoặc ngăn ngừa sự lan truyền của bệnh. Xây dựng các hệ thống cung cấp nước sạch là biện pháp phòng chống có hiệu quả kinh tế nhất ở hầu hết các khu vực. Giáo dục sức khoẻ là cần thiết để đảm bảo sự tham gia của cộng đồng vào việc xây dựng và sử dụng các phương tiện cung cấp nước. Sự nhiễm bệnh SLGL trong một quần thể phụ thuộc và đòi hỏi chính xác bốn yếu tố:

1.Sự hiện diện của các ổ chứa bệnh quan trọng;

2.Sự có mặt của vật chủ trung gian, nhất là ốchọ Lymnaea;

3.Các cơ hội cho nguồn nước nhiễm do con người và động vật khác;

4.Hành vi ăn uống, bao gồm rau sống, các loại rau thủy sinh chưa được xử lý.

Do đó, các biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất cho y tế cộng đồng đòi hỏi phải đúng mục đích, không nhất thiết phải là tất cả nhưng tối thiểu chú trọng đến các khâu này.

Tác động vào vật chủ trung gian truyền bệnh và mầm bệnh

Điều quan trọng là cung cấp đủ nước sạch để uống, tắm và giặt quần áo. các hệ thống cung cấp nước sạch được trang bị hệ thống ống dẫn và máy bơm hoặc các giếng đào sẽ làm cho nhân dân tránh tiếp xúc với các con suối và ao hồ nhiễm nguồn bệnh. Cán bộ y tế cần cung cấp thông tin về sự an toàn của các nguồn nước. Nhân dân cần tránh bơi lội, giặt hoặc tắm trong nước nghi ngờ có nhiễm trùng. Tuy nhiên, nhìn chung thì các thông tin chi tiết thường không có sẵn, nên một cách an toàn hơn là xem tất cả các thuỷ vực trong vùng bệnh lưu hành là những nơi có tiềm năng lan truyền bệnh. Đối với những người sản xuất nông nghiệp thường xuyên có nguy cơ nhiễm bệnh, thì việc xét nghiệm và điều trị định kỳ có thể là biện pháp có khả thi nhất để phòng chống bệnh.

Cải thiện môi sinh và giáo dục sức khỏe thay đổi hành vi

Tránh đại tiện hoặc tiểu tiện vào nguồn nước hoặc gần nguồn nước để làm giảm cơ hội nhiễm bệnh ở ốc. Cần phải xây dựng hố xí hoặc nhà vệ sinh và giáo dục khuyên răn trẻ em sử dụng chúng trong sinh hoạt hàng ngày. Truyền thông tin về hậu quả của bệnh đến cá nhân cũng như của cộng đồng, nó sẽ là một gánh nặng cho xã hội nếu không khống chế bệnh.

 

Hướng dẫn cách rửa rau và các loại thủy sinh trong dung dịch giấm 6% hoặc trong dung dịch thuốc tím trong 5-10 phút, chính động tác này sẽ giúp cho phá hủy được các ấu trùng metacercariae đóng kén (encysted metacercariae). Thực hành rửa rau như thế này tỏ ra có hiệu quả và đạt sự chấp nhận của cộng đồng hơn là khuyên họ tạm ngưng ăn rau sống (Farag, 2005; Paul Hewish, 2006). Nếu luộc rau xanh trước khi ăn nếu chúng ta không an tâm với các biện pháp rửa rau thông thường; tránh tăng nhiễm các vùng đang trồng trọt.

Phòng chống ốc

Với sự ra đời của một số thuốc mới và toàn hơn để xử lý bệnh và sự cải thiện việc cung cấp nước và các phương tiện vệ sinh, thì việc phòng chống ốc có lẽ ít được áp dụng hơn trong đấu tranh với bệnh này, tuy nhiên, phòng chống ốc vẫn còn là một biện phápquan trọng, nhất là những nơi có sự lan truyền bệnh cao trẻ em chơi đùa dưới nước. Giáo dục sức khoẻ cũng như việc cung cấp nước sạch có vẻ ít được làm thay đổi tập quán chơi đùa trong nước của trẻ em. Trước khi tiến hành các biện pháp phòng chống ốc, cán bộ y tế cần kiểm tra các ổ nước để phát hiện các loài ốc đóng vai trò vạt chủ trung gian sinh sống trong các ổ nước đó. Có thể phòng chống ốc một cách gián tiếp bằng cách làm giảm bớt nơi ở của chúng hoặc một cách trực tiếp bắt ốc ở những nơi mà các biẹn pháp này không thể/ không đủ hiệu lực tiêu diệt quần thể ốc thì các hoá chất diệt ốc (thuốc diệt nguyễn thể) có thể sử dụng.

Việc quyết định sử dụng hoá chất để phòng chống ốc do những người có kiến thức hiểu biết cao chịu trách nhiệm. Sử dụng hoá chất diệt nhuyễn thể đã và đang là phương pháp quan trọng nhất để phòng chống ốc. Nó đặc biệt có hiệu quả trong phòng chống các loài ốc thuỷ sinh thuộc các giống Bulinus và Biomphalaria. Hoá chất diệt nhuyễn thể kém tác dụng đới với các loài o­ncomelaria lưỡng cư truyền sán máng S. japonicum. Các biện pháp quản lý môi trường thường là có hiệu quả kinh tế nhất. Phòng chống ốc có thể do các đội chuyên môn hoặc các nhân viên chăm sóc sức khoẻ ban đầu được đào tạo trang bị một ít kiến thức về dịch tễ học và phòng chống bệnh sán. Những nơi biết rõ có thuỷ vực lan truyền bệnh, số lượng thuỷ vực ít và dễ tiếp cận và cộng đồng có thể đóng một vai trò tích cực trong các hoạt động phòng chống.

Quản lý môi trường:

Các phương pháp quản lý môi trừờng bao gồm việc tiêu và cấp nước và láng các con mương bằng ciment. Nhìn chung các biện pháp này tốn kém nhưng duy trì được trong một thời gian lâu dài.

 

Giảm nơi cư trú của ốc

Ốc cần thực vật để làm thức ăn, để bám và làm giá thể cho trứng của chúng. Vớt thực vật trong các kênh mương thuỷ lợi làm giảm số lượng ốc. Tuy nhiên, để vớt bỏ thực vật bằng tay thường người ta phải lội xuống nước và như thế là rất nguy hiểm, trong khi đó sử dụng biện pháp cơ học để vớt bỏ thực vật là rất tốn kém. Dọn sạch các kênh mương cũng có thể giúp cho công tác phòng chống một số bệnh khác và có thể làm tăng việc sử dụng hiệu quả các nguồn nước thuỷ lợi. Một nhược điểm của phương pháp này là cần phải được tiến hành lặp đi lặp lại thường xuyên. Những nơi điều kiện cho phép, có thể láng các con kênh mương bằng ciment để ngăn ngừa và hạn chế sự phát triển của thực vật. Nhân dân cũng có thể dọn vớt thực vật ở các thuỷ vực nơi thường bơi lội hoặc nơi giặt giũ quần áo và rửa chén bát đĩa. Trong những điều kiện nhất định thả cá trắm cỏ Trung Quốc (Ctenopharynegodon idella) có thể thích hợp để tiến hành phòng chống sinh học các thực vật thuỷ sinh.

Thay đổi mực nước và tốc độ dòng chảy

Những nơi lượng nước không bị giới hạn, việc làm cho nước dâng cao và làm cho mực nước thấp xuống cũng như tăng tốc độ dòng chảy có thể gây ra xáo trộn nơi ở của ốc và nguồn thức ăn của chúng. Tháo kiệt nước một cách nhanh chóng làm giảm lượng thực vật trong thuỷ vực và diệt ốc do thuỷ vực bị khô. Phương pháp này cần được chú ý đến ở những nơi chủ động được tưới tiêu nước.

Loại bỏ và diệt ốc

Các hầm hố, các vũng và ao nước nhỏ không có mục đích sử dụng đặc biệt có thể được tháo cạn hoặc làm cho đầy nước nếu phát hiện thấy chúng là những nơi lan truyền bệnh sán lá nói chung, không những thế còn là ổ luân chuyển mầm bệnh khác. Có thể sử dụng gàu nạo vét để vớt ốc ra khỏi các kênh mương và các ổ nước, có thể đập bẹp để giết chúng hoặc để khô cho chúng chết. Hiện tượng này đã xảy ra ở Ai Cập và Sudan như là hiệu quả phụ của việc làm tăng tốcdòng chảy bằng cách vớt bùn ra khỏi các dòng kênh.

 

Phòng chống bằng biện pháp sinh học

Khả năng phòng chống ốc bằng biện pháp sinh học đã thu hút sự chú ý của một số người nhưng hiện tại không thể khuyến cáo để áp dụng. Trong một nghiên cứu kéo dài ở Indonesia trên các loài gặm nhấm so với các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển trên các vùng dịch tễ đặc biệt khác nhau cùng với các tập quán canh tác đặc thù. Tất cả các vấn đề môi trường được xác định và điều tra, đếm trứng trong phân và nghiên cứu khảo sát các loài ốc nhiễm. Tại các quốc gia phát triển, một chủ trang trại có chăn thả một lượng lớn gia súc, kiểm tra các nguồn nước và điều tra về các sản phẩm có khả năng nhiễm được bán trên thị trường.

Các chiến lược và thái độ thực hành phòng chống cho những tình huống này được vạch ra và sẽ tiếp tục làm song song với nhưng công việc dùng thuốc tẩy giun sán hiệu quả duy trì. Tại các quốc gia đang phát triển, những gia đình có số lượng gia súc chăn thả ít hơn, chế độ ăn uống và nguồn nước được khảo sát cho thấy dùng lẫn nhau trong nhiều gia đình và các phương thức này đều rất thô sơ, tiêu thụ phân bón và thịt cho địa phương cũng vậy. Kết quả rằng liên quan giữa mùa vụ về nông nghiệp và ký sinh trùng cũng như vật chủ trung gian có liên quan qua lại trong một phạm vi nhất định giúp cho công tác phòng chống hiệu quả hơn. Thuốc sổ giun sán không có khả thi, các quan sát gần đây của một nghiên cứu về kháng thuốc có liên quan gen sán lá gan lớn ở cừu Thin Tail ở Indonesia nhiễm loại Fasciola gigantica, cho thấy các phương pháp sau được lựa chọn sẽ có hiệu quả và khả thi hơn. Các biện pháp phòng chống như thế sẽ không đắt tiền và tạo yếu tố bền vững.

Phòng chống bằng hóa chất

Trong quá khứ, hóa chất diệt nhuyễn thể thường được áp dụng trên diện rộng, rất tốn kém và thường có hại với môi trường, và do vậy được thay thế bằng cách sử dụng khu trú. Các nghiên cứu đầu tiên được tiến hành để xác định các thủy vực và mùa truyền bệnh, hóa chất được sử dụng theo định kỳ chỉ ở các thủy vực đã được xác định. áp dụng biện pháp hóa học chỉ hạn chế ở những nơi mà cư dân địa phương thường xuyên sử dụng để giặt giũ, tắm rửa, bơi lội. Hiện nay chỉ một loại hóa chất diệt nhuyễn thể niclosanide được chấp nhận để sử dụng trong các chương trình phòng chống ốc. Những hóa chất diệt nhuyễn thể khác, bao gồm chất có nguồn gốc thực vật, đang được nghiên cứu đánh giá. Do giá thành cao, Niclosamide chỉ được sử dụng một cách tiết kiệm trong một số ít chương trình phòng chống địa phương. Nếu nồng độ thấp chúng có độc tính rất cao đối với ốc và trứng của chúng. Để áp dụng thực tế, người ta khuyến cao nồng độ sử dụng là 0,6-1mg/l với thời gian tiếp xúc là 8 giờ. Hợp chất này an toàn khi sử dụng và sau khi pha loãng không độc đối với thực vật thủy sinh và các loại hoa màu khác. tuy nhiên, nó rất độc với cá. Cá chết do hóa chất diệt nhuyễn thể có thể ăn được một cách an toàn. Khi sử dụng khu trú và có tính chất mùa vụ, thuốc diệt nhuyễn thể cần phải không gây ra các tác động xấu tới môi trường.

 

Nhìn chung, sử dụng hóa chất diệt nhuyễn thể có thể có một số nhược đIểm sau:

-Vì cần sử dụng nhắc lại nên đòi hỏi một bảo đảm cam kết dài hạn.

-Các hóa chất có giá thành cao, việc giám sát sử dụng kỹ lưỡng của nhân viên được đào tạo là cần thiết.

-Chúng có những tác dụng không mong muốn đối với các sinh vật không phải là mục tiêu phả diệt, đặc biệt là cá.

-Ốc có khả năng tự chôn mình hoặc tạm thời rời khỏi nước để tránh hóa chất, nên đòi hỏi phảI sử dụng nhắc lại.

Cách dùng: niclosamide được sản xuất dưới dạng bột tan 70% hoặc dịch nhũ tương 25%. Dạng dịch nhũ tương phát tán rất tốt trong nước dứng khi trộn lẫn với dầu diesel. Một gam hoạt chất được chứa trong 1,43gam bột hoặc 4 gam hay 4ml chất lỏng.

Nơi nước tù đọng:

Những nơi nước tù đọng, chẳng hạn ở đàm hồ hoặc phía sau các con đập, tốt nhất là sử dụng bình bơm để phun thuốc. Bình bơm mang trên vai cũng rất phù hợp, hỗn hợp bột tan và nước hòa trong bình bơm cần luôn được lắc đều. Nên sử dụng liều 0,4mg/l đối với dịch nhũ tương 25% và 0,6mg/l đối với bột tan khi phun ở các thủy vực nước tù đọng. Lượng thuốc dùng để phun lên bề mặt nước được tính toán như sau:tính thể tích nước trong hồ bằng cách nhân độ sâu trung bình với chiều rộng và chiều dài. Độ sâu có thể ước lượng bằng cách dùng một thước đo, một đầu thước được buộc một vật nặng, còn đầu kia buộc với một sợi dây dài.

Thước đo đứng thẳng đứng, đầu nặng chạm vào đáy hồ, còn sợi dây được kéo lên phí trên. Nếu các hồ nhỏ, thuốc diệt nhuyễn thể cần được phun toàn bộ bề mặt hồ, còn những hồ rộng thì chỉ cần phun ở mép nước. Hiện sẵn có dụng cụ đơn giản để đo nồng độ hóa chất trong nước ở thực địa, nhằm kiểm tra xem thuốc được sử dụng có chính xác không.

 

Nơi nước chảy:

Hóa chất diệt nhuyễn thể thả xuống nước chảy được phát tán ngay lập tức. Bởi vì hóa chất cần phải tiếp xúc với ốc trong một khoảng thời gian đủ để diệt được chúng (8 giờ hoặc hơn), nên hóa chất phải được sử dụng trong một thời gian đủ để có hiệu lực. Với nước chảy, nên dùng thuốc trong vòng 8 giờ với liều lượng 0,6mg/l đối với dịch nhũ tương 25% hoặc 1mg/l đối với dạng bột tan. Việc thả hóa chất vào nước chảy thường thường tiến hành bằng kỹ thuật nhỏ giọt sử dụng một cái thùng phân phối thuốc, thùng này có tốc độ chảy dịch trong một số giờ. Thùng được đặt ở nơi hẹp hoặc nước chảy mạnh của con suối haycon kênh nhằm đảm bảo cho hóa chất được trộn đều với nước. Hóa chất được dòng chảy mang đi và phân bố trong toàn hệ thống chứa nước. Hóa chất thảxuống nước bảo đảm có nồng độ cao đủ để diệt ốc và trứng của chúng ở cuối nguồn nước.

 

Sử dụng hóa chất diệt nhuyễn thể băng thùng phân phối nhỏ giọt ổn định

Niclosamide bột tan 70%, liều 1mg/l, dùng trong 8 giờ

1. Thể tích nước cần phải sử dụng hóa chất trong một giây (m3/s): Q = V x D x W

V: vận tốc nước chảy (m/s)

D: chiều sâu của nước (m)

W: chiều rộng của kênh (m)

2. Tổng số lượng thuốc diệt nhuyễn thể (g) cần thiết:

Q x 100/70 x 60 x 60 x 8

3. Thùng phân phối nhỏ giọt chảy ra: F lít/s

4. Dung dịch pha trong thùng phân phối

[Q(m3/s x 100/70 (g/m3)]/F(l/s) = 100/70 x Q/F (g/l)

Chú ý: tốc độ nước chảy trung bình ở toàn bộ phần cắt ngang con kênh bằng khoảng 85% tốc độ chảy tối đa đo được trên mặt nước bằng cách quan sát vật thể nổi. Do đó lượng niclosamide trong phương trình 2 cần được nhân với 0,85.


- Trong các dòng kênh, tốc độ nước chảy có thể ước lượng bằng cách ghi thời gian để một vật nổi trôi được một khoảng cách nhất định. Các con sông và các dòng suối thì phương pháp ước lượng tốc độ nước như thế này là không chính xác bởi có sự xen lẫn những đoạn sông suối nước đọng với những đoạn có nước chảy nhanh.

- Các phép tính lượng hoá chất thích hợp trình bày trong khung dưới đây. Thùng phân phối nhỏ giọt cần được chứa một lượng thuốc diệt nhuyễn thể hòa lẫn với nước đủ để sử dụng trong vòng 8 giờ. Thuốc diệt nhuyễn thể chảy ra từ thùng phân phối thông qua một cái ống hoặc vòi nước. Để thả một lượng chính xác thuốc diệt nhuyễn thể vào nước, chúng ta điều chỉnh vòi nước hoặc làm tăng hay giảm đường kính ống dẫn bằng một cái kẹp điều chỉnh. Nếu sử dụng dạng bột tan thì thường khuáy đều dung dịch trong thùng để tránh hiện tượng lắng đọng của hóa chất.

 

- Một ví dụ điển hình ở Sudan: một sử dụng hơi khác khác nhưng tỏ ra có hiệu quả tại một làng ở Sudan, nơi mà sự lan truyền ở sán máng xảy ra dọc theo hệ thống thủy lợi. Một kg niclosamide bột tan 70% hòa với 10 lít nước và thả ở cách làng 300m đã giữ cho con kênh không có ốc từ 4-6 tuần. Sau lần này việc sử dụng thuốc được nhắc lại.

Phòng chống bằng hóa liệu pháp thuốc chống ký sinh trùng

            Biện pháp này nhằm loại bỏ ký sinh trùng trong vật chủ, nên phải ngăn ngừa thải trứng và ấu trùng vào trong môi trường. Liệu pháp này sử dụng một cách rộng rãi trên thế giới. Tình hình nhiễm bệnh, dịch tễ học và loài gây bệnh khác nhau từ vùng này đến vùng khác, nên chiến lược sử dụng thuốc điều trị cũng sẽ khác nhau giữa các vùng sinh thái-nông nghiệp khác nhau (agro-ecological zone) trong một quốc gia và thời điểm thực hiện chiến dịch cũng khác nhau tùy thuộc mùa truyền bệnh ký sinh trùng.
 

Chẳng hạn, ở Nigeria công nhân được khuyên dùng thuốc vào thời điểm cuối mùa mưa vì gánh nặng bệnh giun sán ở gia súc có xu hướng cao hơn các thời điểm khác. Một thời điểm nữa là xử lý thuốc vào đầu mùa khô để loại bỏ và cơ hội tái phát của quần thể giun sán không còn nữa do ức chế ấu trùng. Tại Cameroon, các công nhân được khuyên uống thuốc vào đầu hoặc giữa mùa mưa sẽ kìm chế phát triển của giun sán cả năm đến mức tối thiểu. Tại Kenya, các chuyên gia khuyên dùng thuốc chỉ trước khi bắt đầu vào mùa mưa vì họ tìm thấy thực trạng giun sán cao hơn trong suốt mùa khô, trong khi đó các giai đoạn khác họ khuyên dùng thuốc cứ mỗi 4 tuần một lần.

Tại Tanzania, một đơn trị liệu vào cuối mùa mưa nhằm hạn chế gánh nặng bệnh giun sán trong suốt mùa mưa. Trong khi đó, phía bắc Tanzania lại dùng thuốc vào thời điểm giữa bắt đầu và cuối mùa khô. Những nghiên cứu khác ở Tanzania cho thấy xử lý thuốc sau một vài tuần mùa mưa bắt đầu, tiếp đó dùng thuốc với khoảng cách 4 tuần một lần trong suốt mùa mưa để hạn chế nhiễm bệnh trên đồng cỏ với các trứng sán trong mùa khô. Tuy nhiên, cần chú trọng đến tình trạng khác thuốc của cừu tại Kenya, Tanzania, Nam Phi điều trị có thể là một vấn đề y tế đáng ngại trong thời gian đến đối với các quốc gia.

Hóa liệu pháp đã sử dụng trong nhiều năm qua ở quần thể động vật để giảm ổ bệnh động vật và giảm gánh nặng về kinh tế cho nông nghiệp. Tuy nhiên, gần đây, thuốc bithionol chỉ có sẵn để điều trị Fascioliasis, song liều cao, chi phí cao và thời gian sử dụng dài ngày khiến cho chiến lược này không phù hợp cho cộng đồng. Thuốc triclabendazole lại không có sẵnở hầu hết các nước, song dù sao nó cũng đã chỉ ra triển vọng trong loại bỏ và giảm gánh nặng bệnh sán lá gan lớn trong thời gian qua.

Truyền thông giáo dục sức khỏe cộng đồng

Giáo dục truyền thông trong y tế cộng đồng là các hoạt động nhằm khuyến khích mọi người đóng góp vai trò tích cực trong việc duy trì và nâng cao sức khỏe cho bản thân và cho cả cộng đồng của họ. Giáo dục truyền thông trên nhiều kênh trong cộng đồng, gồm có: giảng bài ngoại khóa về phòng chống bệnh sán lá gan tại các trường học, tiến hành tuyên truyền thông qua hệ thống loa truyền thanh của xã; tổ chức các buổi họp dân phố, làng xã để tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phòng chống các bệnh giun sán, thực hiện cam kết bỏ thói quen ăn sống, uống nước lã, có giám sát của y tế địa nhưng điều này e khó; phân phối và phát các tranh treo tường tại các hộ gia đình với nội dung phòng chống bệnh sán lá gan lớn; tai các điểm lưu hành bệnh, nên treo các pano, áp phích về tuyên truyền phòng chống bệnh sán truyền qua thức ăn và sán lá gan lớn nói riêng.

 

Tổ chức tập huấn về kỹ năng chẩn đoán và điều trị bệnh sán lá gan lớn cho cán bộ y tế tuyến huyện và xã, nhất là bác sĩ và kỹ thuật viên để phối hợp công tác tốt hơn. Muốn thực hiện tốt chiến lược phòng chống bệnh sán lá gan lớn tốt ở Việt Nam thì cần phải:

-Trước tiên cần đánh giá tình hình bệnh tật bằng cách thu thập số liệu (về tỷ lệ nhiễm, mắc bệnh, nguy cơ nhiễm bệnh) để lập chương trình phòng chống bệnh thích hợp, bao gồm điều tra tại cộng đồng và các tuyến bệnh viện điều trị bệnh SLGL. Trong đó, mỗi tỉnh thành nên xác định được số xã có bệnh lưu hành và đánh giá mức độ, lập bản đồ dịch tễ học theo từng cấp đến xã. Đánh giá kết quả điều tra bằng phiếu điều tra kiến thức, thái độ hành vi bệnh (KAP survey);

-Nâng cao khả năng chẩn đoán, phát hiện và điều trị bệnh SLGL của y tế địa phương bằng cách tập huấn chuyên môn cho nhân viên y tế cơ sở, đặc biệt tuyến huyện và xã để họ có khả năng phát hiện được những trường hợp nghi ngờ về lâm sàng và biết xét nghiệm kính hiển vi để chẩn đoán bệnh, đồng thời cho điều trị hợp lý;

-Xây dựng mạng lưới YTCS từ tỉnh đến xã để họ có khả năng phát hiện bệnh thụ động, chủ yếu dựa vào công tác truyền thông và quản lý ca bệnh tốt;

-Áp dụng truyền thông vào từng hoạt động cụ thể để đạt mục tiêu đề ra. Giáo dục truyền thông để cộng đồng tự phòng chống bệnh sán lá gan lớn tốt hơn cho chính họ, đồng thời cán bộ truyền thông cần nắm nguyên tắc cơ bản của giáo dục truyền thông như: vật liệu truyền thông, phương tiện truyền thông và kỹ năng truyền thông;

-Tiến hành điều trị: hiện nay chúng ta chỉmới áp dụng điều trị ca bệnh được phát hiện và đã có phác đồ điều trị cho cơ sở y tế theo khuyến cao của TCYTTG;

-Đẩy mạnh công tác NCKH nhằm khuyến khích các nghiên cứu có thể ứng dụng ngay vào từng mục tiêu phòng chống cụ thể như khả năng mở rộng hoạt động phòng chống bệnh SLGL có sự kết hợp của nhiều nguồn vốn (ngân sách quốc gia, quốc tế và từ các dự án đầu tư);

-Xã hội hóa công tác phòng chống bệnh SLGL như lồng ghép với các chương trình khác và vận động cộng đồng cùng tham gia. Xây dựng hệ thống quản lý, điều hành chiến lược phòng chống bệnh SLGL từ trung ương đến tận cơ sở với hình thức quản lý như kênh báo cáo, cách giám sát và đánh giá kết quả thực hiện nhằm hoàn thiện hơn về chiến lược.

 

Công tác giáo dục truyền thông tác động tới:

-Đối tượng trực tiếp: những người có hành vi nguy cơ cao, chẳng hạn người ăn thực phẩm chưa nấu chín hoặc chưa được xử lý sạch như rau, cá, gỏi cá, ốc;

-Đối tượng gián tiếp: như những người có thể tác động đến những đối tượng trực tiếp (người thân gia đình chẳng hạn);

-Để xây dựng hoạt động truyền thông phải qua các bước sau: xem xét yêu cầu cụ thể của công tác tuyền thông giáo dục, đặt mục tiêu cụ thể (tùy theo chương trình dự án, xây dựng, thử nghiệm, phân phối vật liệu giáo dục truyền thông, xây dựng mạng lưới gồm càng nhiều đối tượng tham gia càng tốt, dự kiến những khó khăn có thể xảy ra để khắc phục, thông điệp truyền thông có hiệu quả cần thiết: đơn giản, ngắn gọn, rõ ràng, chính xác, âm điệu nên có tính hài hước, gây ấn tượng khó quên, tiến hành giáo dục truyền thông và đánh giá kết quả.

Các phương tiện giáo dục truyền thông

-Loa, đài: có ưu điểm là phổ biến hơn ở nông thôn với số lượng khán thính giả đông đảo, có thể phát đi nhiều lần và tiết kiện, nhưng có nhược điểm là người dân ít khi nghe hết cả bản tin và không có hình ảnh minh họa;

-Vô tuyến truyền hình, báo chí có tính chất bổ sung cho loa, đài về phương diện bao phủ, dễ vận động quần chúng, nhất là tại thành thị, dễ thuyết phục và đặc biệt được chính quyền các cấp ủng hộ, nhưng có khó khăn là chi phí cao và không rộng khắp nơi xa xôi, miền núi, hải đảo;

-Tờ rơi có ưu điểm là len lỏi đến từng hộ gia đình, người dân có thể đọc nhiều lần, tại nhiều thời điểm khác nhau, là phương tiện cho cách tuyên truyền người-người, tuyên truyền viên dễ sử dụng và người dân sau khi xem lại đem cho người khác xem, tạo nên một dây chuyền thông tin hưu ích trong chốc lát;

-Tuyên truyền người - người cũng chính là hình thức truyền thông giáo dục hữu hiệu nhưng cần có vốn kiến thức chung nhất định, có kỹ năng giao tiếp/ thuyết phục. Phương pháp này cần tuân thủ nguyên tắc: cảm thông với tình trạng hiện tại và nâng cao dần nhận thức.

 

Ứng dụng vào công tác phòng chống sán lá gan lớn

Mục đích

-Nâng cao hiểu biết cho mỗi thành viên trong cộng đồng để từ đó thay đổi hành vi nguy cơ nhiễm sán lá gan như chưa xử lý hoặc chưa nấu chín (rau sống, ốc);

-Phát động công tác vệ sinh môi trường, quản lý phân.

Tuyên truyền viên trong cộng đồng bao gồm:

-Chính quyền bao gồm cán bộ phụ trách văn xã, trưởng thôn, bản và hình thức tuyên truyền như thông qua họp dân, loa đài, bản tin xã;

-Trường học gồm giáo viên và học sinh, hình thức giáo dục truyền thông như thông qua bàI giảng ngoại khóa hoặc học sinh tuyên truyền cho cha mẹ mình;

-Hội phụ nữ: tuyên truyền cho chồng, con (và tất cả các thành viên trong giai đình);

-Cán bộ y tế: đóng vai trò nòng cốt trong việc điều phối hoạt động của các thành phần trên và đóng vai trò cố vấn về chuyên môn.

Nội dung tuyên truyền gồm có:

-Tác hại của bệnh SLGL có thể gây suy tế bào gan, tổn thương gan lan tỏa, viêm đường mật lan tỏa, sỏi mật, biến chứng tụ máu, vở bao gan, chảy máu đường mật, u gan, áp xe gan, thậm chí tử vong;

-Liên quan giữa ung thư gan - sán lá gan lớn đến nay chưa có bằng chứng xác thực và chưa có só liệu minh chứng;

-Nguyên nhân gây ra bệnh SLGL: rau xanh sống, ốc, uống nước lã, gan sống;

-Để tránh tác hại của bệnh SLGL cần phải như thế nào? Nếu bị nhiễm đến khám chuyên khoa, điều trị triệt để, vệ sinh môi trường, không nên bón rau bằng phân tươi, không thải phân xuống hồ cá, ao hồ, quản lý phân tốt, xử lý phân hợp vệ sinh.

Phát hiện ca bệnh trong phòng chống bệnh SLGL

-Công tác phòng chống SLGL: phòng chống lây nhiễm như an toàn thực phẩm, vệ sinh nuôi trồng thủy sản, giáo dục sức khỏe, phòng chống bệnh SLGL bằng cách chẩn đoán (phát hiện ca bệnh), điều trị đặc hiệu và theo dõi bệnh nhân.

-Phát hiện ca bệnh (CD_Case Detection): vấn đề quan trọng để phát hiện bệnh nhân là cần chẩn đoán hợp lý cho những người có hành vi nguy cơ kèm với biểu hiện lâm sàng. Chẩn đoán dựa vào: soi phân bằng kính hiển vi, tiền sử ăn thức ăn sống, chưa chín, khám lâm sàng và xét nghiệm hỗ trợ;

 

-Phát hiện thụ động (PCD_Passive Case Detection):nói chung, các bệnh được phát hiện tại cơ sở y tế, có thể là bệnh viện trung ương, tỉnh, huyện,trạm y tế, phòng khám tư nhân, là phát hiện bệnh thụ động, bao gồm bệnh nhân có biểu hiện nghi ngờsẽ tự đến khám bác sĩ và bác sĩ chẩn đoán điều trị bệnh. Cụ thể: bệnh do người dân có biểu hiện nghi ngờ và tự đến khám tại cơ sở y tế. Đa số trường hợp phát hiện trong hệ thống y tế công cộng là phát hiện thụ động. Hệ thống y tế giữ vai trò “thụ động” đợi bệnh nhân đến để chẩn đoán và điều trị, do vậy để phát hiện bệnh thụ động thành công thì cần khuyến khích tính chủ động của người dân. Phát hiện bệnh thụ động đóng góp nhiều vào nguồn thông tin bệnh tật và phụ thuộc chủ yếu vào:

+Hiểu biết của cộng đồng về dấu hiệu sớm của bệnh;

+Nhận thức tầm quan trọng của việc đi khám bệnh;

+Tại một số vùng bệnh lưu hành, người dân biết rõ sau khi nhiễm bệnh sẽ phát triển thành bệnh nhưng họ chỉ đi khám khi biểu hiện bệnh thì đã muộn;

+Chính giao dục truyền thông làm tăng hiệu quả của công tác phát hiện bệnh thụ động. Người dân nghi ngờ nếu có một trong các biểu hiện cần đi khám ngay, chẳng hạn với SLGL (đau tức thượng vị, mũi ức, tiêu chảy, buồn nôn, ngứa,...).

-Phát hiện bệnh thụ động chưa đủ trong phòng chống bệnh SLGL vì: số liệu phát hiện thụ động thường chưa đủ để đánh giá hết mức độ vấn đề, thành công của nó phần lớn tùy thuộc vào các hoạt động truyền thông, khi tuyên truyền đến cơ sở y tế, một trong những yếu tố quyết định là việc chi trả của người dân, nhiều khi cán bộ y tế chưa có thái độ tích cực, chủ động;

-Phát hiện chủ động (ACD_Active Case Detection): là nhân viên y tế tìm đến bệnh nhân, áp dụng cho những trường hợp đặc biệt như phát hiện chủ động, điều tra cộng đồng nhiễm, đánh giá dịch tễ. Y tế chủ động lập kế hoạch, tổ chức thực hiện bên ngoài cơ sở y tế.

+Mục tiêu của phát hiện bệnh chủ động là vùng tỷ lệ nhiễm bệnh cũng như nhận thức của bệnh thấp hoặc tỷ lệ nhiễm bệnh cao nhưng nhận thức bệnh thấp. Tại những vùng lưu hành nặng, trong giai đoạn đầu, phát hiện bệnh thụ động cần có phát hiện bệnh chủ động hỗ trợ.

+Phát hiện bệnh chủ động có những hoạt động như sau: lập kế hoạch (vùng mục tiêu, nhóm cần phát hiện, dự kiến độ rộng của mục tiêu, chiến lược và các hoạt động cụ thể, dự kiến kinh phí, hậu cần); Đội đIều tra tùy thuộc vào cơ quan chủ trì, phối hợp và quy mô điều tra mà tổ chức đội điều tra phù hợp; thực hiện điều tra và thu thập, xử lý số liệu, báo cáo kết quả.

+Các bước phát hiện bệnh chủ động: điều tra hàng loạt (XN phân, siêu âm, ELISA), chuyển tải thông tin về các biểu hiện bệnh cho cộng đồng, xác định và điều trị dương tính, xử lý số liệu báo cáo.

-So sánh ưu /nhược điểm của phát hiện bệnh chủ động/thụ động chúng ta thấy:

+Ưu điểm: phát hiện bệnh thụ động có tính bền vững cao, nâng cao khả năng cho hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu, ít tốn kém cho hệ thống y tế, khuyến khích sự tham gia của người dân và nâng cao nhận thức bệnh tật cho toàn cộng đồng;

+Nhược điểm: phát hiện bệnh thụ động phụ thuộc vào nhận thức bênh tật trong cộng đồng; chủ yếu phải dựa vào hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu mà không chỉ là những cán bộ tận tâm, việc thiếu trang bị thuốc men tại hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến phát hiện bệnh thụ động, nếu vùng nhiễm nặng mà nhận thức của cộng đồng thấp thì rất nhiều bệnh nhân bị bỏ sót và không cung cấp số liệu dịch tễ;

+Phát hiện bệnh chủ động phụ thuộc vào nguồn nhân lực sẵn có chi phí sao cho đội điều tra, ít quan hệ với hệ thống CSSKBĐ và độ bền vững không cao.

* Công tác chuẩn bị và lập bản đồ phân bố các bệnh SLGL

Đây là công việc cần thiết trong chiến lược phòng chống bệnh sán lá gan lớn vì các lý do sau: xác định tình hình dịch tễ học bệnh sán lá gan lớn để có chiến lước trước mắt và chiến lược lâu dài phòng chống [1]; Phân định rõ ràng vùng lưu hành và mức độ lưu hành bệnh để có chiến lược cho từng vùng nào trước và sau [2]; Do dữ liệu của phương pháp lập bản đồ rất đầy đủ dữ liệu và cập nhật thường xuyên, khiến cho giiứ chuyên môn luôn nắm được tình hình cũng như dự báo tình hình bệnh xảy ra [3]; Bức tranh tổng thể về bệnh sán lá gan lớn với đầy đủ thông tin, nếu được đưa phần giám sát bằng hệ thống remote sensing để củng cố thêm dự báo dịch của bệnh sán lá gan, giúp công tác lập kế hoạch phòng chống tốt hơn [4].

* Mô hình hệ thống thông tin địa lý cho chiến lược phòng chống sán lá gan lớn (GIS)
 

Mô hình sử dụng hệ thống thông tin địa lý dựa trên biểu đồ độ ẩm và nhiệt độ để đánh giá nguy cơ nhiễm sán lá gan Fasciolae. Một bản đồ vùng địa lý cũng có thể áp dụng để cảnh báo về môi trường xung quanh để có kế hoạch chế ngự sự phân bố và mức độ dịch bệnh. Các dữ liệu về vật chủ trung gian như ốc được nhập khẩu từ tổ chức lương nông thế giới (FAO-Food and Agriculture Organization), Corp Production System Zones (CPSZ) được dùng để thiết lập hệ thống GIS qua phần mềm ATLAS GIS 3.0 Software. Thang nhiệt độ từ 10-160C sẽ được áp dụng lần lượt cho theo dõi bệnh sán lá gan F.gigantica và F.hepatica và tính toán ngày mà nhiệt độ tăng theo hệ thống dự báo nhiệt độ và từ đó lập ra bảng dự báo theo tuần và theo hàng tháng. Mô hình này cho phép so sánh các chỉ số nguy cơ và các đặc điểm môi trường dựa trên các dữ liệu sẵn có của điều tra. Hàng tháng các chỉ số nguy cơ của bệnh trong các vùng trong cả nước được báo cáo như là cảnh báo khác nhau cho các vùng cần phòng chống khác nhau.

Kết quả bước đầu qua một nghiên cứu tại Ethiopia dựa trên hệ thống thông tin địa lý (GIS) này cho biết khoảng nhiệt độ dao động trong hầu hết các vùng và có sự khác biệt về cường độ nhiễm bệnh trên những mô hình biểu diễn khác nhau. Phía tây ẩm ướt, tỷ lệ sinh sản cercariae xảy ra mạnh từ tháng 5-10, trong khi ở phía nam thì xảy ra từ tháng 4-5 và 9-10, phụ thuộc vào lượng mưa hàng năm. Vùng miền trung và bắc trung bộ, nguy cơ cao nhất là mưa vào mùa hè, khi đó sinh sôi ấu trùng metacercariae rất nhiều và thường từ tháng 8-9, ở những vùng lạnh hơn và ở độ cao so với mặt nước biển 2800m, chu kỳ nhiễm bệnh của sán lá gan có thể diễn ra kéo dài hơn 1 năm. Nguy cơ mắc F. gigantica tại vùng phía tây, nam và bắc trung bộ ở độ cao so với mặt nước biển là 1440-2560m. Tuy nhiên, chu kỳ nhiễm bệnh hoàn thành trong một năm với điều kiện độ cao chỉ dưới 1.700m. Nguy cơ cao nhất cho nhiễm F.gigantica là vùng phía tây ẩm ướt, do đó liệu trình điều trị dự phòng cho vùng này đặt ra là 2-3 lần/ năm.

Dựa trên các lợi điểm về CPSZ trên, các chuyên gia khuyến cáo áp dụng hệ thống này cho các nước có dịch bệnh sán lá gan lưu hành, điều này sẽ mang lại lợi ích về y tế lẫn kinh tế nông nghiệp.

Phòng chống bệnh SLGL qua quản lý ca bệnh

Biện pháp này nhằm giảm phơi nhiễm của các gia súc với ấu trùng của SLGL. Phòng chống bằng cách quản lý tốt được xem là có khả thi hơn biện pháp dùng thuốc và có lẽ nó là biện pháp thực hành tốt nhất cho nông dân vì họ không thể tiếp cận các thuốc đắt tiền. Những việc chăn thả gia súc luân phiên theo nhóm tuổi gia súc, nâng cao dinh dưỡng và hệ thống chuồng trại tốt hơn là các biện pháp thông dụng nhất được áp dụng ở hầu hết các quốc gia hiện tại.

1. Chăn thả gia súc luân phiên (Rotational grazing) thường được áp dụng trong hệ thống sinh sản hiện đại nhưng nó có hạn chế khi áp dụng tại tuyến xã. Chăn thả các con gia súc non và cha mẹ của chúng riêng rẽ sẽ giúp chúng không bị nhiễm ấu trùng và trứng sán lẫn nhau từ đồng cỏ;

2. Chăn thả gia súc thay thế (Alternative grazing) bởi các vật chủ khác nhau dựa vào mức độ lây nhiễm chéo. Việc thay đổi chăn thả loại gia súc khác được thực hiện ở Nam Phi, Zimbabwe, Kenya. Ddiều này có thể có thể giảm các loại giun sán, song có thể không đầy đủ;

3. Giảm tỷ lệ gia cầm bị nhiễm trứng giun hoặc ấu trùng bằng cách giảm những gia súc nhiễm giun;

4. Sử dụng thức ăn cho gia súc không có nhiễm ký sinh trùng (parasite-free forage), hệ thống nhà có nền bằng dát gỗ và tăng cường nuôi dưỡng nhằm hạn chế nhiễm bệnh cho gia súc kể cả nhiễm sán.

 

Các biện pháp phòng bệnh khác

-Biện pháp này dựa trên cơ chế đề kháng di truyền của các con vật gây giống với sự nhiễm giun sán. Sự đề kháng của gây giống nội sinh của dê và cừu so với cơ chế ngoại sinh. Gây giống cho các chủng đề kháng có thể mở ra một chiến lược lâu dài cho phòng chống giun sán. Hiện nay, biện pháp nay không được sử dụng rộng rãi ở vùng Sub-Sahara nhưng nó vẫn có tiềm năng lớn bởi biện pháp có những lợi điểm đáng thuyết phục mọi người;

-Chủng ngừa một loại vaccine phòng chống bệnh giun sán dựa trên nguyên tắc kích thích đáp ứng miễn dịch có thể tồn tại sau khi nhiễm bệnh. Kết quả chỉ ra cho thấy việc chủng ngừa ở cừu trưởng thành với chiếu xạ. Kết quả vẫn còn đang trong giai đoạn thử nghiệm;

-Một nghiên cứu mới được công bố vào năm 2006 do các nhà khoa học thuộc khoa xét nghiệm sinh học giun sán, Viện nghiên cứu y khoa Queensland, Australia, đứng đầu là tiến sĩ Alex Loukas, họ đã và đang điều chế loại vaccine chống lại ký sinh trùng sán lá. Cơ chế bảo vệ của vaccine này hoạt động thông qua kích thích hệ thống miễn dịch cơ thể, hình thành cơ chế bảo vệ và chống lại ký sinh trùng sán lá. Thử nghiệm ban đầu cho thấy vaccine làm giảm tỷ lệ nhiễm bệnh sán lá trên 60%. Tiến sĩ Alex Loukas cho biết vaccine có thể cứu sống hàng ngàn người vì đây là giải pháp thực tế hơn là liệu pháp điều trị đặc hiệu như hiện nay, nghĩa là “phòng bệnh hơn chữa bệnh” (prevention is better than cure), A.Loukas nói thêm: “có những loại thuốc có thể tiêu diệt tận gốc ký sinh trùng song nếu còn nhiễm thì người đó phải dùng thuốc suốt đời”, vaccine có thể bảo vệ cho họ trong 5-10 năm thay vì người đó sẽ phải điều trị trong vài lần trong năm. Hiện vaccine này đang được thử nghiệm trên động vật và đang chờ quỹ tài trợ để thử nghiệm trên con người;

-Động vật và người bị nhiễm SLGL được điều trị với thuốc đặc hiệu triclabendazole. Tiếc thay, vũ khí lợi hại (conventional weapons) này đang đối mặt với tình hình gia tăng kháng thuốc do loài sán đó với thuốc đặc hiệu. Trong tình hình thiếu một loại thuốc mới để chế ngự tình trạng kháng thuốc và tìm giải pháp thuốc thay thế nhằm tránh đề kháng này là việc cấp thiết. Do vậy, một chiến lược mới đầy hứa hẹn chống lại SLGL hoạt động chủng ngừa, song để một vaccine đạt được sự chọn lựa nhất là phải có đặc tính an toàn, không gây hại cho môi trường và được sự chấp nhận người tiêu dùng, đặc biệt vaccine đó không có lượng tồn dư về hoá chất (chemical residues) trong thịt cũng như trong sữa con vật sau khi được tiêm chủng. Sản phẩm vaccine thông minh “smart weapon” mới này nhằm hạn chế sự tấn công của SLGL vào gan vật chủ trước khi chúng có cơ hội gây ra các tổn thương đáng kể.

 

-Nguyên tắc cơ bản của chủng vaccine là con vật đó được tiêm vaccine (thường là một sản phẩm từ thể nhiễm được giảm độc lực hoặc chết). Điều này sẽ tạo ra đáp ứng miễn dịch, cho phép vật chủ nhận ra và khống chế các đợt tấn công của SLGL. Việc điều chế vaccine cho ký sinh trùng khó gấp trăm ngàn lần so với chế vaccine chống lại virus bởi hai lý do: một là bất kỳ một loài ký sinh đơn giản nào chăng nữa cũng có mức độ gen di truyền phức tạp gấp 12.000 lần loài virus điển hình; hai là về chu kỳ sinh học của nó rất đa dạng lẫn cấu trúc và giai đoạn phải trải qua nhiều vật chủ trung gian suốt quá trình phát triển. Chính vì lẽ đó, quy trình để tạo ra một loại vaccine tấn công vào đích đặc hiệu của SLGL là khó. Nên chiến lược mới ở đây đòi hỏi khắc phục những trở ngại trên, với mục đích rằng “vaccine thông minh” khống chế trên động vật được tiêm chủng, với nguồn năng lượng của SLGL và bắtchúng dừng lại các chu chuyển phát triển đang dang dở;

-Để đạt được điều này, họ đã nghiên cứu làm thế nào biết được rõ bản chất các enzyme (của SLGL) đã giúp cho sán xâm nhập vào vật chủ để chống lại sán. Kết quả bước đầu mang lại đầy hứa hẹn hơn họ tưởng, vaccine đã bảo vệ chống lại sán cho các vật chủ, giúp vật chủ giảm đến 66% tình trạng nhiễm cũng như số lượng sán so với nhóm không dùng vaccine.

Những công trình nghiên cứu tiếp theo nhằm tối ưu hoá về phân phối vaccine và chỉ định đường dùng vaccine. Nếu thử nghiệm thành công, vaccine mang lại cho các trang trại chăn nuôi gia súc một biện pháp mới trong phòng chống SLGL trên gia súc, được lợi về nhiều mặt cả hiệu quả, trong sạch môi trường và thúc đẩy lợi nhuận về chăn nuôi. Nghiên cứu vaccine tái tổ hợp chống lại bệnh SLGL cho vật nuôi trong nông nghiệp của Viện công nghệ sinh học Ireland cũng cho biết thuốc đặc hiệu triclabendazole – loại thuốc duy nhất hiện nay điều trị bệnh SLGL đang có một tỷ lệ kháng lan rộng, không chỉ ở Ireland mà còn ở Hà Lan và Australia, trong khi các biện pháp khống chế không được tốt. Từ đó, hướng mở ra là làm thế nào chế một loại vaccine ngăn ngừa cả giai đoạn cấp và mạn tính. Kết quả thử nghiệm lâm sàng bước đầu cho thấy có nhiều hứa hẹn. Liên quan đến Cathepsin L proteinases, một loại vaccine chống lại Fasciola hepatica ở động vật do nhóm nghiên cứu Mulcachy và Dalton thuộc Khoa vi trùng và KST thú y, ĐH Ireland đang tiến hành. Xuất phát ý tưởng rằng quần thể Fasciola hepatica đề kháng với thuốc đặc hiệu diệt sán, nên giải pháp đưa ra một thuốc mới để chống kháng là cần thiết, song điều đó đến nay vẫn nằm trong giai đoạn thử nghiệm. Tiến trình cho một loại vaccine chống lại SLGL là tối ưu nếu nó rất có ích cho môi trường và được sự chấp nhận người tiêu dùng, mang lại lơinhuận kinh tế gia súc. Cathepsin L proteases bao gồm Fhe CL 1 và Fhe CL 2, được tiết ra bởi SLGL ở tất cả các giai đoạn phát triển của chúng trong động vật có vú, chất này người ta cho rằng có đóng vai trò quan trọng trong cơ chế hỗ trợ KST di chuyển, hủy cấu trúc mô, xâm nhập tạo ra miễn dịch. Các tác giả cân nhắc về các điểm đích (targets) đầu tiên cho công trình điều chế vaccine. Qua nghiên cứu vaccine trên gia súc và cừu, kết quả cho thấy mức độ bảo vệ đạt đến 72-79%, có thể thu được sự miễn nhiễm do sử dụng loại vaccine chiết từ cathepsin Ls. Loại vaccine này cũng cho thấy một hiệu quả rất cao về khả năng tạo phôi thai và sinh sản (anti-embryonation/anti-fecundity effects) trên loài KST và do đó, chúng tác động lớn lên sự lan truyền bệnh đối với vật chủ trung gian. Trong khi sự nhiễm trùng tự nhiên ở cừu và gia súc tạo ra một đáp ứng miễn dịch Th2 không thể bảo vệ, thì nghiên cứu này chỉ ra rằng sự bảo vệ sẽ giảm nếu tiêm chủng liên quan đến những yếu tố đáp ứng Th1.

 


Một nghiên cứu khác liên quan đến Glutathione S-transferase để chống lại Fasciola hepatica ở cừu do nhóm nghiên cứu Sexton và cộng sựthuộc Viện nghiên cứu thú y, khoa y học nông nghiệp Attwood, Australia. Tiềm năng của GST được xem như một ứng cử viên vaccine chống lại SLGL ở động vật như cừu (n = 9), loại GST tinh khiết chiết từ sán trưởng thành của Fasciola hepatica và 500 metacercariae F. hepatica. Sự chủng ngừa miễn dịch tạo ra một lượng lớn kháng thể đối với đáp ứng GST, ngược lại, nó đáp ứng rất thấp với kháng nguyên hoặc mức đáp ứng không thể phát hiện được đối với kháng nguyên này khi quan sát trên cừu bị nhiễm sán. Trong suốt quá trình thử nghiệm, nhiễm sán được giám sát bằng cách đo nồng độ Hb trong hồng cầu, mức tổn thương gan và thải trứng ra phân của cừu. Kết quả phân tích chỉ ra có một tỷ lệ nhỏ (n = 4) của số con được chủng ngừa vaccine không có thiếu máu, giảm tổn thương gan và số lượng trứng/ phân trung bình thải ra ít hơn so với nhóm chứng và đặc biệt số lượng sán nhiễm vào cơ thể cũng thấp hơn. Lượng sán trong gan ở nhóm chủng vaccine GST (107 +/- 22) là 57% tháp hơn so với nhóm chứng bị nhiễm mà không tiêm vaccine (250 +/- 25). 4/9 ca trong nhóm tiêm vaccine GST cho thấy giảm 78% lượng giun so với nhóm chứng. Những kết quả này cho thấy GST của F. hepatica trưởng thành là một kháng nguyên mới (novel Ag) mà chúng có thể bảo vệ cừu đặc hiệu chống lại SLGL. Kết quả chỉ ra đáp ứng miễn dịch đối với GST là trực tiếp tới việc làm giảm lượng sán non (juvenile worm).

Thuốc Triclabendazole.

Một nghiên cứu được tiến hành tại Indonesia nhằm đánh giá tác động của triclabendazole (TCBZ) chống lại sự nhiễm trùng tự nhiên của SLGL Fasciola gigantica được đánh giá trên thực địa 102 con gia súc. Các gia súc này được chia thành hai nhóm: một nhóm cho dùng TCBZ liều 12 mg/kg đường uống mỗi 8 tuần trong vòng một năm. nhóm kia là không điều trị được cho làm chứng. Liên quan đến phòng chống là đếm lượng trứng trong phân trên những con vật được điều trị thuốc có một tỷ lệ giảm đáng kể (P<0.001). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm về các giá trị thông số về máu và trọng lượng cơ thể con vật. Men glutamate dehydrogenase trong huyết thanh (GLDH) ở nhóm được điều trị giảm trong khoảng bình thường, ngược lại trong nhóm chứng thì giá trị này trên mức bình thường. Mặc dù nồng độ gamma glutamyl transferase (GGT) huyết thanh vẫn giữ nguyên giá trị bình thường trong cả hai nhóm, nhưng ở nhóm chứng cao hơn. Tuy nhiên, cả nồng độ GLDH và GGT ở nhóm chứng thấp hơn so với một số báo cáo của tác giả khác khi nghiên cứu trên bệnh sán lá gan mạn tính, điều này cho thấy tổn thương gan chỉ nhẹ gây ra bởi số lượng nhỏ F. gigantica trên các động vật đó. Thêm vào đó, các chỉ só này còn phụ thuộc vào tần suất bệnh, tỷ lệ lưu hành bệnh, dữ liệu về kinh tế, chiến lược phòng chống ở đất nước này đòi hỏi phải đánh giá một cách chi tiết vì dễ sót các trường hợp bệnh chưa phát hiện trên lâm sàng (subclinical disease).

Thuốc Fasinex: được khyến cáo điều trị có thể thích ứng một cách tự do với vùng dịch tễ địa phương trong mỗi vùng khác nhau vì hiệu quả của thuốc tác động lên cả 3 giai đoạn của sán. Hiệu quả của thuốc Fasinex trên thể sán chưa trưởng thành giai đoạn sớm cho phép khỏang cách điều trịcó thể kéo dãn ra giai đoạn tiềm tàng hoặc lâu hơn. Ngoài ra, các động vật có thể được điều trị một liệu trình ngắn sau mùa nhiễm bệnh.

Nhìn chung, cách tiếp cận các biện pháp phòng chống giun sán hiện tại có những ưu điểm và nhuợc điểm riêng và phần lớn các biện pháp đang nằm trong khuôn khổ nghiên cứu.

Một nghiên cứu đánh giá phòng bệnh SLGL bằng hóa liệu pháp lựa chọn mang tính y tế công cộng tại vùng lưu hành của Nile Delta, Ai Cập do nhóm tác giả Curtale F, Hassanein YA, Savioli L thực hiện. Khả năng phát triển con người đóng vai tò như vật chủ chính (definitive host) đã được minh chứng qua thử nghiệm và giờ đây nhu cầu về phòng chống nhiễm trùng ở người đi cùng phối hợp với thú y. Một tiếp cận điều trị chọn lọc cải tiến với hóa liệu pháp đích vào nhóm tuổi nguy cơ cao đặc biệt và các thôn, làng đã được triển khai. Trước hết, các huyện có tỷ lệ mắc nhiễm cao được xác định thông qua điều tra cơ bản ở vùng đó, rồi sàng lọc và điều trị chọn lọc tất cả trẻ em trong tuổi đi học ở các huyện có tỷ lệ mắc cao. Tổng số 36.000 trẻ em được sàng lọc trong 6 huyện, điều trị 1.280 ca mắc SLGL. Tỷ lệ nhiễm ở các vùng đó giảm nhanh từ 5,6 xuống còn 1,2%. Biện pháp này là phù hợp làm giảm tỷ lệ mắc và lan truyền bệnh, hơn nữa đánh giá chi phí có hiệu quả hơn so với điều trị hàng loạt (MDA).

 

Tiếp cận hiện đại phòng chống sán lá gan lớn (Modern approaches for controlling fascioliasis)

Sán lá gan lớn là một bệnh quan trọng trong chăn nuôi gia súc và thiệt hại rất lớn về kinh tế chăn nuôi. Các vật nuôi và động vật hoang dại đặc biệt bị nhiễm là chủ yếu. Song, con người chỉ là nhiễm bệnh tình cờ. Bện liên qan trực tiếp đến quần thể ốc đóng vai trò như các vật chủ trung gian. Tác nhân chính gây bệnh là Fasciola spp. và do hai loài chủ yếu quan trọng gây ra là Fasciola (F.) hepaticaF. gigantica. F. hepatica có sự phân bố toàn cầu với tỷ lệ nhiễm cao hơn ở các vùng ôn đới, trong khi F. gigantica phần lớn tìm thấy tại các vùng nhiệt đới. Tại Pakistan, có cả hai loài trên, song F. gigantica tỷ lệ cao hơn trong phân bố địa lý so với F. hepatica. Tỷ lệ mắc sán lá gan cao hơn xảy ra vào các mùa thu, tiếp theo sau đó là mùa xuân và mùa đông, và đặc biệt thấp hơn vào mùa hè. Các thể di động của Fasciola (cercariae) và quần thể ốc tìm thấy phát triển mạnh hay tốt nhất vào khoảng nhiệt độ 25-30oC, mối liên quan này giiar thích lý do tại sao bệnh xuất hiện với tỷ lệ cao hơn vào mùa thu so với các mùa khác.

Nhiêt độ và độ ẩm tác động chính đến khâu đẻ trứng, khả năng sống còn của các ấu trùng cercarie đóng kén và quần thể ốc. Thiệt hại về kinh tế do sán lá gan lớn ở các động vật nhai lại dẫn đến giảm trọng lượng, sản lượng sữa và lông và điều này có liên quan đến cường độ nhiễm.

Chẩn đoán bệnh SLGL trên các động vật nuôi chủ yếu dựa vào xét nghiệm phân tìm trứng sán Fasciola trong phân. Các kỹ thuật chẩn đoán huyết thanh học rất có ích và là công cụ đáng tin cậy trong chẩn đoán SLGL do độ nhạy và độ đặc hiệu cao. Phát hiện các kháng thể trên các động vật nhiễm bằng các sản phẩm tiết của sán như là kháng nguyên (ES antigens) và phát hiện kháng nguyên từ các mẫu phân của động vật nhiễm (coproantigens). Các xét nghiệm sinh học phân tử như polymerase chain reaction (PCR) cũng được dùng để chẩn đoán bệnh SLGL. Độ nhạy của xét nghiệm rất cao và một tín hiệu PCR dương tính có thể thu nhận tự mô của các con ốc bị nhiễm ấu trùng miracidium.

 

Hóa liệu pháp là một bước tiếp cận quan trọng trong phòng chống SLGL ở điều kiện thực địa. Tại các quốc gia phát triển, các chương trình làm sạch cũng đã áp dụng có hiệu quả trong phòng chống SLGL. Lịch trình triển khai chiến dịch chính xác dựa vào kiến thức chu kỳ sinh học của sán và các vật chủ trung gian của chúng. Sán lá gan lớn kháng lại các thuốc kinh điểnđã được tìm thấy; tuy nhiên, một số phối hợp thuốc dạng “cocktails”, như (levamisole + oxyclozanide + cobalt sulphate) và oxyfen (oxyclozanide + oxfedazole + cobalt sulphate + selenium) ít có hiệu quả nhưng khi phối hợp lại có hiệu quả cao hơn. Áp dụng các chương trình ngắn ngày, điều trị 4 lần trong năm với một thuốc diệt sán cocktail có hiệu quả chống lại các sán non, nhưng chỉ có khả thi trong hệ thống nông trang.  

Thuốc diệt nhuyễn thể được khuyến cáo dùng trên thực địa để chống ốc-các vật chủ trung gian của sán Fasciola. Các nơi cư trú của chúng mở rộng như sông, suối, các cánh đồng tưới tiêu rộng lớn làm cho chi phí can thiệp tốn kém hơn. Một tiếp cận chiến lược sử dụng chất diệt nhuyễn thể ốc áp dụng vào thời điểm trước khi sinh cercaria, đó là bắt đầu tháng 6 và lặp lại vào tháng 9 ở Pakistan.

Phòng chống sinh học thành công bệnh SLGL nhờ vào loại sán echinostomes cũng được đề nghị. Khả năng sống của các echinostomes giai đoạn ấu trùng làm xáo trộn đến các ấu trùng sán lá khác từ vật chủ trung gian ốc và gián đoạn sinh dục ký sinh trùng của ốc thông qua ấu trùng echinostomes rất khả quan. Phải chăng đây là một hình thức thiên địch hay tác nhân bệnh chống bệnh. Một nghiên cứu đạt được thử nghiệm cho thêm 5-10 con vịt nhiễm tự nhiên Echinostoma revolutum vào phân bò sử dụng để làm phân bón cho đồng ruột. Các con vit, con ngỗng, con ngóe được nuôi trong điều kiện thả rông ăn ốc được xem là một trong những phương tiện có thể giúp phòng chống sinh học bệnh SLGL ở Pakistan, đặc biệt ở điều kiện đồng ruộng.

 

Phòng chống miễn dịch bệnh SLGL hình như là một lựa chọn tốt nhất dưới điều kiện các trang trại đồng ruộng. Các thử nghiệm vaccine trên gia súc sử dụng một số kháng nguyên F. hepatica đã được đánh gía. Các phân tử tái tổ hợp có hiệu lực cao hơn so sánh với các kháng nguyên tự nhiên và vaccine hỗn hợp (vaccine cocktails), một số kháng nguyên trích từ vaccine đơn, điều này có thể có cộng lực hoặc có hiệu ứng phụ trợ trong bảo vệ. Loại nucleic acid vaccine có thể đóng vai trò như biện pháp phòng chống miễn dịch cổ điển. Nucleic acid cocktail của các thành phần kháng nguyên khác nhau của sán Fasciola (ví dụ FABP, GST và kháng nguyên cathepsin L) có hiệu quả bảo vệ bao phủ trên các động vật dẫn đến có hiệu quả cao về bảo vệ cho cả bầy đàn.

Việc áp dụng các vaccine nucleic acid chống lại bệnh do ký sinh trùng gần đây đã được báo cáo. Bệnh SLGL giwof đây đã được công nhận như một bệnh truyền tự động vật lây sang người đang nổi (Emerging food-borne zoonosis) tại nhiều quốc gia trên thế giới. TCYTTG cũng đưa bệnh SLGL vào danh sách các bệnh ưu tiên trong số các bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTDs). Các nghiên cứu trước đây tiến hành trong các labo dịch tễ học đưa sự chuẩn hóa của việc sử dụng ELISA tại chỗ (local antigens-ES antigen) và dùng cả các kit thương mại của ELISA. 

Người ta hiểu rất rõ về thể thức dịch tễ học cũng như nền tảng của chiến lược phòng chống bệnh ký sinh trùng. Các điều tra tiếp theo là cần thiết xác định tỷ lệ nhiễm các loài ốc Lymnae spp. để đánh giá sự phân bố cùng với các nghiên cứu về vai trò các bệnh khác trong khu dịch tễ học của bệnh SLGL. Ngoài chẩn đoán, điều trị thường quy và điều trị dự phòng liên quan đến các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng lên tỷ lệ mắc bệnh như tuổi, hệ thống nước nên đánh giá để đưa các kỹ thuật quản lý hợp lý. Cung cấp vòi nước hơn là dùng nước sông, ao hồ sẽ ngăn ngừa sự xuất hiên bệnh thêm nữa. Tương tự, các kỹ thuật đồng cỏnhư đảo nghịch đồng cỏ để hạn chế cơ hội nhiễm phải các ấu trùng nhiễm loại metacercariae. 

Sự phân bố của bệnh phải được xác định với các thử nghiệm huyết thanh học đáng tin cậy và nhạy nhất (phối hợp với các xét nghiệm cổ điển) đối với các vùng ưu tiên có nguy cơ cao để can thiệp trước tiên. Phối hợp các xét nghiệm chẩn đoán với các biện pháp phòng chống có thể làm coh chiến lược hiệu quả hơn đối với bệnh tại Pakistan. Chương trình truyền thông giáo dục thay đổi hành vi liên tục là cần thiết để tang kiến thức động lực lan truyền bệnh. Tiếp cận đa chiều đa phương có thể cung cấp các biện pháp phòng chống bền vững hơn, tốt hơn. Hiện tại, các xét nghiệm chẩn đoán huyết thanh học và xét nghiệm cổ điển sẵn có trong phục vụ nghiên cứu dịch tễ học là một tiếp cận như thế. 

Ngày 20/10/2015
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích