Miền Trung-Tây Nguyên không những chỉ là cái nôi của bệnh sốt rét mà còn là nơi có bệnh giun sán lưu hành với các chủng loại hết sức đa dạng,gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của con người .
Những nghiên cứu của chúng tôi về sự nhiễm các loại giun truyền qua đất ( giun đũa, giun tóc, giun móc) trong khu vực từ 50 – 80% và sán lá gan nhỏ lưu hành ở các tỉnh Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Đak Lak với tỷ lệ nhiễm 4 – 35% đã được giới thiệu trong nhiều tài liệu.
Hiện nay ngoài các bệnh giun sán nêu trên, tình trạng nhiễm bệnh sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung – Tây nguyên rất đáng báo động.
Bệnh sán lá gan lớn là một bệnh ký sinh trùng gây nên bởi loài sán lá gan lớn ký sinh ở các đường dẫn mật trong gan. Nguyên nhân gây ra bệnh là do ăn phải rau sống hoặc thực vật thủy sinh: rau ngổ, rau cải xoong ( xà lách xoong), rau đắng, rau muống, rau răm….hoặc uống nước lã có chứa ấu trùng sán. Bệnh sán lá gan lớn trước đây thường gặp ở những động vật ăn cỏ như trâu, bò, cừu…những năm gần đây bệnh đã xuất hiện và lan rộng ở người. Triệu chứng lâm sàng của bệnh sán lá gan lớn khá rầm rộ và cấp tính, tiến triển của bệnh càng nặng dần nếu không được điều trị kịp thời.
Để đánh giá thực trạng nhiễm sán lá gan lớn ở các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên cũng như hiệu quả điều trị của thuốc Triclabendazole, chúng tôi đã tiến hành điều tra tại một số điểm nghiên cứu của 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Đồng thời thu dung tất cả những bệnh nhân đến khám và tổ chức theo dõi điều trị tại phòng Khám của Viện sốt rét KST - CT Quy Nhơn.
Để điều tra tình hình nhiễm sán lá gan lớn, chúng tôi sử dụng kỹ thuật Elisa để phát hiện sự có mặt của kháng thể sán lá gan lớn trong máu bệnh nhân.
I. Kết quả điều tra tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn tại điểm NC Khánh Hòa và Phú Yên.
TT | Tỉnh | Xét nghiệm Elisa | Xét nghiệm phân |
Số XN | Số (+)tính | Tỷ lệ % | Số XN | Số (+)tính | Tỷ lệ % |
1 | Khánh Hòa | 407 | 15 | 3,68 | 407 | 5 | 1,22 |
2 | Phú Yên | 203 | 22 | 10,83 | 203 | 2 | 0,98 |
| Cộng | 610 | 37 | 6,06 | 610 | 7 | 1,14 |
Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có kháng thể sán lá gan lớn trong huyết thanh ở Khánh Hòa là 3,68%, Phú Yên là 10,83%.
II. Kết quả xét nghiệm Elisa và XN phân tại phòng khám của Viện sốt rét Quy Nhơn.
TT | Tỉnh | Xét nghiệm Elisa | Xét nghiệm phân |
Số XN | Số (+) tính | Tỷ lệ % | Số XN | Số (+) tính | Tỷ lệ % |
1 | Quảng Bình | 2 | 1 | 50,00 | 2 | 0 | 0 |
2 | Quảng Trị | 2 | 2 | 100,00 | 2 | 0 | 0 |
3 | Quảng Nam | 27 | 20 | 74,07 | 27 | 0 | 0 |
4 | Quảng Ngãi | 7 | 5 | 71,43 | 7 | 0 | 0 |
5 | Bình Định | 650 | 325 | 50,00 | 650 | 5 | 0,76 |
6 | Phú Yên | 36 | 22 | 61,11 | 36 | 1 | 2,78 |
7 | Khánh Hòa | 2 | 2 | 100 | 2 | 0 | 0 |
8 | Ninh Thuận | 1 | 1 | 100 | 1 | 0 | 0 |
9 | Đak lak | 1 | 1 | 100 | 1 | 0 | 0 |
10 | Kon Tum | 1 | 1 | 100 | 1 | 0 | 0 |
11 | Gia Lai | 55 | 36 | 60,00 | 55 | 2 | 3,63 |
12 | Đak Nong | 1 | 1 | 100 | 1 | 0 | 0 |
| Cộng | 785 | 414 | 52,74 | 785 | 8 | 1,01 |
III. Kết quả điều trị bằng Triclabendazole:
3.1. Giới thiệu về Triclabendazole:
- Triclabendazole có biệt dược là Egaten do hãng Novatis (Thụy Sĩ) và hãng Ciba-Gei (Thụy Điển) sản xuất.
- Tên hóa học là 6-choro–(2,3–dichlorophenoxyl)-2methyl- thiobenzimidazol, là dẫn xuất của Benzimidazole. Tác dụng điều trị sán lá gan lớn và điều trị sán lá phổi.
- Liều dùng: theo cân nặng cơ thể và sử dụng theo đường uống, không được nhai. Người lớn: 10mg/kg liều duy nhất, nếu không khỏi có thể tăng lên 20mg/kg chia 2 lần cách nhau 12-24h.
3.2. Kết quả điều trị:
3.2.1.Theo dõi triệu chứng lâm sàng trước và sau điều trị 1 tháng, 6 tháng.
TT | Triệu chứng lâm sàng | Trước điều trị | Sau 1 tháng | Sau 6 tháng | So sánh 1 tháng với trước điều trị | So sánh 6 tháng với trước điều trị |
1 | Đau hạ sườn phải | 77 | 20 | 6 | Giảm 74% | Giảm 92,20% |
2 | Ậm ạch khó tiêu | 45 | 2 | 0 | Giảm 95% | Giảm 100% |
3 | Sốt | 11 | 0 | 0 | Giảm 100% | Giảm 100% |
4 | Ngứa, nổi mẩn | 29 | 6 | 0 | Giảm 79,3% | Giảm 100% |
5 | Rối loạn tiêu hóa | 41 | 1 | 0 | Giảm 97,56% | Giảm 100% |
Như vậy kết quả bảng trên cho thấy các dấu hiệu lâm sàng sau khi điều trị 1 tháng đều giảm, đặc biệt sau 6 thyáng dấu hiệu lâm sàng hầu như hết, chỉ còn đau hạ sườn phải với tỷ lệ 7,8%.
3.2.2. Theo dõi tổn thương ở gan qua siêu âm.
Số ca theo dõi | Số ca có tổn thương ở gan | Tỷ lệ tăng, giảm |
Trước điều trị | Sau điều trị 6 tháng |
83 | 63 ( 75,90%) | 15 ( 18,07%) | Giảm 76,19% |
3.2.3. Theo dõi mức độ kháng thể của bệnh nhân trước và sau điều trị 6 tháng:
Hiệu giá kháng thể | Trước điều trị ( số ca) | Sau 6 tháng điều trị |
Âm tính | Giảm | Không giảm |
1/1.600 | 8 | 8 ( 100%) | | |
1/3.200 | 34 | 26 ( 76,47%) | 2 (5,9%) | 6 ( 17,64%) |
1/6.400 | 28 | 14 ( 50%) | 13 ( 46,42%) | 1 (3,57%) |
1/12.800 | 13 | 5 ( 38,46%) | 8 ( 61,53%) | 0 |
Cộng | 83 | 53 ( 63,85%) | 23 ( 27,71%) | 7 ( 8,43%) |
Kết quả bảng trên cho thấy sau 6 tháng điều trị, kết quả xét nghiệm Elisa ở các mức kháng thể từ 1/1.600 – 1/12.800 trở về âm tính đạt tỷ lệ 63,86% ( 53/83 ca). Số bệnh nhân có nồng độ huyết thanh giảm sau điều trị là 27,71% ( 23/53), trong đó có 8,43%
( 7/83) không giảm nồng độ huyết thanh. Tuy nhiên còn 30 ca được tiếp tục điều trị liều thứ 2 và sau 3 tháng xét nghiệm Elisa đã trở về bình thường.
IV. Bàn luận:
4.1. Về tỉ lệ nhiễm sán lá gan lớn tại một số tỉnh miền Trung – Tây Nguyên.
- Kết quả điều tra tại cộng đồng và kết quả xét nghiệm tại phòng khám của Viện sốt rét KST – CT Quy Nhơn cho thấy bệnh sán lá gan lớn đã có xu hướng tăng lên ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Đặc biệt là một số tỉnh có tỉ lệ nhiễm cao như Bình Định, Khánh Hòa và Phú Yên. Điều này là một báo động cho các tuyến bệnh viện trong chẩn đoán phát hiện và điều trị bệnh !important; đặc biệt trong công tác vệ sinh ăn uống của người dân.
- Tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn điều tra ở cộng đồng hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên từ 3,68 -10,83% .
- Tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn trung bình của bệnh nhân các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên đến khám xét nghiệm tại phòng Khám của Viện khá cao 52,74%, nguyên nhân đây là những bệnh nhân đã được sàng lọc từ các tỉnh gởi về.
4.2. Về hiệu quả điều trị của Triclabendazole:
- Với liều duy nhất 10mg/kg/24h Triclabendazole đã cải thiện rất tốt các triệu chứng lâm sàng của bệnh ngay từ sau uống thuốc 1 tháng ( Đau hạ sườn phải giảm 74%, sốt giảm 100%, ngứa nổi mẩn giảm 79,31%, rối loạn tiêu hóa giảm 97,56%). Đặc biệt sau 6 tháng điều trị các triệu chứng lâm sàng đều hết, duy chỉ dấu hiệu đau hạ sườn phải chỉ còn 7,8%.
- Với liều đơn như trên sau 6 tháng xét nghiệm Elisa và siêu âm kiểm tra, kết quả điều trị bệnh nhân sán lá gan lớn đã thu được kết quả khá tốt:
+ Siêu âm về gan: số bệnh nhân không còn tổn thương ở gan sau 6 tháng điều trị chiếm tỷ lệ là 76,19%.
+ Xét nghiệm Elisa đều giảm tùy theo mức độ kháng thể ban đầu:
Mức 1/1.600 -> !important; 100% trở về âm tính.
Mức 1/3200 -> !important; 76,4% trở về âm tính.
Mức 1/6400 -> !important; 50% trở về âm tính.
Mức 1/12.800 -> !important; 38,46% trở về âm tính.
Những bệnh nhân sau liều điều trị lần 1 còn dương tính, chúng tôi dùng tiếp liều thứ 2 !important; sau 1 năm xét nghiệm lại cho kết quả âm tính và siêu âm kiểm tra hoàn toàn bình thường.
V. Kết luận:
Qua điều tra tại cộng đồng và thu dung bệnh nhân đến khám và điều trị tại Phòng Khám của Viện sốt rét KST - CT Quy Nhơn, chúng tôi nhận thấy:
Bệnh sán lá gan lớn thật sự đáng báo động ở khu vực miền trung Tây Nguyên. Sự có mặt của bệnh nhân của 12/15 tỉnh trong khu vực đến khám và điều trị tại Viện sốt rét KST - CT Quy Nhơn là vấn đề cần phải quan tâm.trong nghiên cứu phòng chống.
Triệu chứng lâm sàng của bệnh rất cấp tính và tiến triển mạnh mẽ nếu không được phát hiện và chẩn đoán kịp thời.
Thuốc Triclabendazole liều 10mg/kg/24h ( liều duy nhất ) điều trị bệnh nhân sán lá gan lớn sau 6 tháng điều trị đạt hiệu quả ( khỏi về lâm sàng 92,20%, Elisa âm tính 63,85%, hết tổn thương ở gan 76,19%) và 100% trở về bình thường với liều thứ 2 sau 1 năm điều trị.
 |
Hình ảnh xét nghiệm Elisa sán lá gan lớn tại Khoa Ký sinh trùngViện sốt rét – KST – CT Quy Nhơn |
 |
| Hình ảnh siêu âm bệnh nhân sán lá gan lớn tại phòng khám Viện sốt rét Quy Nhơn |