Bệnh sán lá gan nhỏ là một bệnh ký sinh trùng do sán lá gan nhỏ ký sinh ở các đường mật trong gan gây nên những tổn thương ở gan, tạo ra những bệnh lý tùy theo mức độ nhiễm, thời gian nhiễm. Nguyên nhân gây ra bệnh sán lá gan nhỏ là do ăn phải cá nước ngọt sống hoặc chưa nấu chín có chứa ấu trùng sán. Ấu trùng sẽ vào đường tiêu hóa, xuống dạ dày và xuống ruột rồi theo ống mật lên gan và ký sinh ở các đường mật trong gan.
Có 3 loài sán lá gan nhỏ: loài Clonorchis sinensis, Opisthorchis viverrini và Opisthorchis felineus. Sự phân bố của các loài sán lá gan nhỏ này cũng rất khác nhau !important; loài sán lá gan nhỏ Clonorchis sinensis (C.sinensis) thường gặp ở Trung Quốc, Triều Tiên, Hồng Công, Nhật Bản, Nga và một số nước Đông Nam Á như Philippine, Singapo, Malaysia và miền Bắc Việt Nam.
Loài sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverrini (O. viverrini) thường gặp ở các nước Thái Lan, Lào, Căm pu chia và Philippine. Loài sán lá gan nhỏ Opisthorchis felineus ( O.felineus) gặp ở một số nước Đông Âu và Liên Xô cũ.
Để phân biệt 3 loài sán lá gan nhỏ này, tác giả Skrjabin (1950) đã dựa vào hình thể học để định loại:
- Sán lá gan nhỏ C.sinensis có tinh hoàn chia nhánh khác biệt với 2 loại sán lá gan nhỏ O.viverrini và O.felineus tinh hoàn hình thùy, chia múi.
- Riêng phân biệt 2 loài sán lá gan nhỏ O.viverrini và O.felineus, GS -TS Nguyễn Thị Lê (Viện Khoa học Việt Nam) dựa vào 2 đặc điểm buồng trứng và kích thước hấp khẩu:
 |
Hình ảnh con sán lá gan thu được ở bệnh nhân xã An Mỹ |
+ Loài sán lá gan nhỏ O.viverrini có buồng trứng phân thùy và kích thước hấp khẩu bụng lớn hơn kích thước hấp khẩu miệng.
+ Loài sán lá gan nhỏ O.felineus thì buồng trứng không phân thùy và kích thước hấp khẩu bụng nhỏ hơn kích thước hấp khẩu miệng.
- Đối với Việt Nam từ năm 1908 Mouzel, 1909 Mathis và Leger đã tìm thấy C.sinensis. Năm 1924 Railiet phát hiện được O.felineus ở Hà Nội. Năm 1965 Đặng Văn Ngữ và Đỗ Dương Thái bắt gặp một trường hợp O.felineus phối hợp với C.sinensis.
- Từ năm 1965 đến nay nhiều công trình nghiên cứu về dịch tễ học, lâm sàng và điều trị của các tác giả Đỗ Dương Thái, Kiều Tùng Lâm, Vũ Văn Phong, Lê Bách Quang, Phạm Song, Phạm Văn Thân, Nguyễn Văn Đề…về loài sán lá gan nhỏ C.sinensis ở miền Bắc việt Nam đã được báo cáo.
- Đối với khu vực miền Trung -Tây nguyên Việt Nam chưa có tác giả nào nghiên cứu và đề cập đến bệnh sán lá gan nhỏ. Năm 1990 khi tiến hành điều tra cơ bản về tình hình nhiễm giun sán của tỉnh Phú Yên, chúng tôi đã điều tra tại xã An Mỹ, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên !important; kết quả đã phát hiện thấy trứng sán lá gan nhỏ trong phân của người dân địa phương với tỷ lệ 62/460 mẫu phân xét nghiệm. Đây là mốc quan trọng để chúng tôi đặt dấu hỏi về sự có mặt của loài sán lá gan nhỏ ở khu vực miền Trung là loài gì ?Nguyên nhân gây bệnh ở đây như thế nào? Những câu hỏi được đặt ra được xây dựng thành những nghiên cứu tiếp sau này vào năm 1992 trở đi.
- Từ năm 1992 – 1998 chúng tôi đã tiến hành nhiều cuộc điều tra xét nghiệm về tỷ lệ nhiễm bệnh và xác định vật chủ trung gian truyền bệnh sán lá gan tại xã An Mỹ huyện Tuy An tỉnh phú Yên. Điều tra năm 1992 cho kết quả nhiễm sán lá gan nhỏ tại xã An Mỹ là 36,97% ( 247/668). Được sự cộng tác của một số cán bộ nghiên cứu Viện sốt rét KST- CT Trung ương, chúng tôi đã điều tra, định loại và mổ 3316 ốc các loại !important; kết quả đã tìm thấy loài ốc mút Melania tuberculata nhiễm ấu trùng sán lá gan nhỏ với tỷ lệ nhiễm 2,60% (28/1074).
- Tại điểm nghiên cứu An Mỹ, chúng tôi đã xác định nguyên nhân gây bệnh sán lá gan nhỏ là do người dân có tập quán ăn gỏi cá giếc sống. Người dân có thói quen này từ lâu đời nay và chỉ ăn gỏi cá giếc chứ không gỏi cá khác, thường ăn vào các tháng 1,2 âm lịch hàng năm. Kết quả điều tra tỷ lệ nhiễm ấu trùng sán trên cá bằng các phương pháp tiêu cơ và mổ cá soi tươi ở 1721 cá thể thuộc 10 loài cá, trong đó có 527 cá giếc và chỉ phát hiện được ấu trùng trong cá giếc với tỷ lệ nhiễm 28,65%.
- Để xác định đúng nguyên nhân gây bệnh sán lá gan nhỏ do cá giếc, chúng tôi đã dùng ấu trùng sán lá gan nhỏ thu hồi ở cá giếc sống (Metacercaria) đem gây nhiễm cho mèo non tại labo của Viện sốt rét KST - CT Quy Nhơn. Qua 4 tháng gây nhiễm cho 3 con mèo non và có 2 mèo non đối chứng, khi mổ gan mèo gây nhiễm đã thu hồi 314 con sán lá gan nhỏ từ non đến già. Riêng 2 mèo đối chứng chỉ cho ăn cơm và cá chín, khi mổ không tìm thấy sán trong gan mèo.
- Tại điểm nghiên cứu chúng tôi thu thập một số mèo địa phương để mổ gan tìm sán. Kết quả mổ 10 con mèo có tuổi đời từ 1- 6 năm thu được 404 con sán lá gan nhỏ.
 |
Hình ảnh con sán lá gan nhỏ được tìm thấy ở mèo tại An Mỹ |
- Để xác định chính xác sán lá gan nhỏ ký sinh ở người, ngoài việc xét nghiệm phân tìm trứng, chúng tôi đã tiến hành điều trị cho bệnh nhân bằng thuốc đặc hiệu Pra ziquantel !important; sau đó thu hồi phân để đãi phân tìm sán. Kết quả đãi phân ở 35 bệnh nhân điều trị thu hồi được 331 con sán.
- Sau khi thu hồi sán lá gan nhỏ ở các vật chủ mèo nuôi, mèo gây nhiễm và ở người, chúng tôi đã xử lý và ép nhuộm làm tiêu bản định loại. Kết quả định loại theo các tiêu chuẩn hình thái học cho thấy tất cả sán lá gan thu hồi ở các vật chủ trên đều là loài sán lá gan nhỏ Opisthor chis viverrini.
Kết quả định loại hình thể học của chúng tôi đã được GS-TSKH Nguyễn Thị Lê, Viện Khoa học Việt Nam kiểm chứng đúng tên loài và được báo cáo nghiệm thu tại Hội đồng chấm luận án Tiến sỹ Y học cấp Nhà nước năm 2000. Loài sán này tiếp tục được kiểm chứng bằng kỹ thuật PCR của Viện Khoa học Việt Nam năm 2003 đều thống nhất kết quả là loài sán lá gan nhỏ Opisthor chis viverini.
Trong những năm qua chúng tôi tiếp tục điều tra về sự lưu hành bệnh sán gan nhỏ ở một số tỉnh miền Trung-Tây nguyên. Qua điều tra nghiên cứu đã phát hiện thêm sự lưu hành bệnh sán lá gan nhỏ ở 3 xã Mỹ Thọ, Mỹ Thắng, Mỹ Thành huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định !important; xã Tam Thanh, thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam; một số điểm nghiên cứu ở tỉnh Đak Lak và tỉnh Kon Tum. Kết quả định loại bằng kỹ thuật sinh học phân tử cho thấy loài sán lá gan nhỏ tại Bình Định và Quảng Nam vẫn là loài Opisthorchis viverini.
Trong tương lai chúng tôi tiếp tục điều tra xác định sự phân bố của loài sán lá gan nhỏ Opisthorchis viverini trong khu vực sẽ đến đâu và chúng có biên giới với loài C.sinensis ở miền Bắc đến địa danh của tỉnh nào là những nghiên cứu hết sức thú vị.