Khu vực miền Trung-Tây Nguyên ngoài bệnh sốt rét lưu hành nặng nhất so với cả nước, tình hình nhiễm bệnh sán lá gan lớn cũng đang là vấn đề thời sự nóng hổi trong cộng đồng.
Ngay từ năm 2003, tình hình nhiễm sán lá gan lớn ở khu vực đã trong tình trạng báo động với ngành y tế do số bệnh nhân mắc bệnh ở các tỉnh ngày một gia tăng. Theo kết quả điều tra của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn năm 2003 tại cộng đồng hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà, tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn 5-7%. Đặc biệt từ 2004-2005, Phòng khám chuyên khoa của Viện đã tiếp nhận khám và điều trị cho 1500 ca sán lá gan lớn từ hầu hết các tỉnh trong khu vực.
Hiện nay tình hình nhiễm bệnh sán lá gan lớn ngày càng trầm trọng hơn, bệnh phân bố trên diện rộng 15/15 tỉnh trong khu vực, lượng bệnh nhân đến khám và điều trị ngày càng gia tăng. Số liệu thống kê trong 5 tháng đầu năm 2006 tại Phòng khám chuyên khoa của Viện cho thấy:
Số TT | Tháng | Số xét nghiệm | Số ( +) tính | Tỷ lệ (%) |
1 | 1/2006 | 151 | 115 | 76,16% |
2 | 2/2006 | 273 | 242 | 88,64% |
3 | 3/2006 | 386 | 265 | 68,65% |
4 | 4/2006 | 372 | 298 | 80,10% |
5 | 5/2006 | 326 | 261 | 80,06% |
Tổng cộng | 1.508 | 1.181 | 78,31% |
Thống kê trên đây mới chỉ là những bệnh nhân được khám và phát hiện, số bệnh nhân còn lại ở các tỉnh trong khu vực chắc chắn còn đông hơn.
|
BS.Huỳnh Hồng Quang- Trưởng phòng khám đang giải thích tình trạng khan hiếm thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh nhân. |
Các triệu chứng cơ năng của bệnh sán lá gan lớn có tính chất cấp tính như đau tức vùng gan hoặc vùng thượng vị, sốt, mệt mỏi, gầy sút, ngứa nổi mẩn và rối loạn tiêu hoá. Khám lâm sàng và siêu âm thấy gan to và đau, siêu âm có nhiều ổ tổn thương trong gan. Những triệu chứng này ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ bệnh nhân và gây tâm lý hoang mang lo lắng cho người bệnh; nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn tới các biến chứng xuất huyết, thiếu máu nặng, vỡ bao gan và tử vong. Kết quả nghiên cứu ban đầu của Viện đã xác định nguyên nhân nhiễm sán lá gan lớn là do ăn các thực vật thủy sinh có chứa ấu trùng như rau ngổ, rau cải xoong, rau muống nước, rau diếp cá… đây là thói quen ăn uống ưa thích của người dân ở cả nông thôn và thành thị. Để điều trị bệnh sán lá gan lớn, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã phối hợp với Viện Sốt rét-KST-CT Trung ương nghiên cứu và khẳng định hiệu lực thuốc đặc hiệu Triclabendazole. Trong lúc chưa có thuốc đặc hiệu Triclabendazole, Viện đã chỉ đạo Phòng khám sử dụng phác đồ của Tổ chức Y tế thế giới (Albendazole, Mebendazole) để điều trị thay thế, nhưng hiệu quả của các phác đồ này không cao và các triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân hầu như không thuyên giảm.
Thực trạng mắc bệnh sán lá gan lớn ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên đã được các cơ quan thông tin đại chúng đặc biệt quan tâm như Đài truyền hình VTV1 đưa tin 3 lần, Đài truyền hình và Báo tỉnh Bình Định đưa tin nhiều lần. Nhiều bệnh viện tuyến tỉnh trong khu vực liên tục gửi công văn hoặc điện thoại trực tiếp về Viện yêu cầu được hỗ trợ và giúp đỡ hướng giải quyết.
Đứng trước nguy cơ bùng phát bệnh sán lá gan lớn; Viện đã chủ động đề xuất với Bộ Y tế có những nghiên cứu về dịch tễ học, về chẩn đoán và các phác đồ điều trị bệnh, tuy nhiên các nghiên cứu này mới chỉ ở phạm vi hẹp trên địa bàn ba tỉnh Phú Yên, Khánh Hoà và Bình Định. Mặt khác để cảnh báo sớm nguy cơ phát triển bệnh và xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo Bộ, Viện đã có 2 công văn báo cáo thực trạng tình hình nhiễm sán lá gan lớn gửi Bộ Y tế:
- Công văn số 72/VSR-KH ngày 22/2/2006 báo cáo về tình hình nhiễm giun sán trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
- Tờ trình số 87/VSR-TT về việc xin ý kiến chỉ đạo công tác phòng chống giun sán, kèm theo Công văn số 87/ VSR-TT ngày 3/4/2006 về dự toán kinh phí phòng chống sán lá gan lớn năm 2006.
Đồng thời với các công văn báo cáo Bộ Y tế, ngày 18/2/2006 Viện cũng đã gửi công văn Văn phòng WHO tại Việt Nam đề nghị cung cấp 10.000 viên thuốc điều trị đặc hiệu Triclabendazole (có biệt dược là Egaten). Tuy nhiên, Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn chỉ nhận được 500 viên trong số lượng thuốc nêu trên đủ sử dụng cho 250 bệnh nhân, trong khi gần 600 bệnh nhân đã xác định chưa có thuốc đặc hiệu điều trị, chưa kể rất nhiều bệnh nhân nhiễm mới vẫn tiếp tục đến Phòng khám của Viện.
 |  |
Áp lực bệnh nhân điều trị tại phòng khám | |
Trước thực trạng bệnh nhân sán lá gan lớn quá đông chưa có thuốc điều trị dẫn đến tâm trạng hoang mang, thậm chí không loại trừ khả năng có những thắc mắc và phản ứng trong cộng đồng kiểu như bệnh teo cơ delta (chim sệ cánh)…. Để có giải pháp khắc phục tình hình nhiễm bệnh sán lá gan lớn trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên và sớm ổn định sức khỏe cũng như tư tưởng người dân, Viện sốt rét KST- CT Quy Nhơn tiếp tục có Công văn số 150/VSR-KST ngày 3/6/2006 về việc “Báo cáo tình hình nhiễm sán lá gan lớn” gửi Bộ Y tế cùng với một số đề nghị:
1. Khẩn trương chỉ đạo việc cấp bổ xung thuốc Triclabendazole ưu tiên để điều trị cho bệnh nhân kịp thời, tránh những thắc mắc không đáng có ở người bệnh.
2. Có chiến lược nhập thuốc đặc hiệu Triclabendazole và cung cấp kinh phí phòng chống sán lá gan lớn năm 2006 để giải quyết những điểm nóng của bệnh.
3. Cử đoàn điều tra xác minh tại Viện, đồng thời có định hướng đầu tư nghiên cứu tình hình nhiễm bệnh và các biện pháp can thiệp nhằm giảm thiểu bệnh sán lá gan lớn một cách bền vững ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
TS. Triệu Nguyên Trung