Hơn 10 ngày qua, TP. Hà Nội và một số tỉnh lân cận phía Bắc đã xuất hiện bệnh tiêu chảy cấp với hàng chục người mắc bệnh bao gồm người lớn và trẻ em. Theo ghi nhận ban đầu nguyên nhân gây bệnh bắt nguồn từ các thực phẩm tôm chua, mắm tôm, … không đảm bảo vệ sinh đã khiến cho tình hình bệnh tiêu chảy xảy ra trở nên nghiêm trọng. Chúng tôi giới thiệu một số thông tin về bệnh tiêu chảy cấp về tác nhân gây bệnh, triệu chứng bệnh, thái độ xử trí và các phòng bệnh cốt nhằm ngăn ngừa bệnh tiêu chảy chấm dứt và mang lại sức khỏe cho cộng đồng, giảm gánh nặng cho toàn xã hội.
Tổng quan về bệnh tiêu chảy cấp:
Tiêu chảy xuất hiện bất kỳ mùa nào trong năm, song về mùa hè số ca xảy ra nhiều nhất vì khi đó ruồi nhặng phát triển, nguồn nước sinh hoạt bị ô nhiễm, dân chúng có xu hướng ăn hoa quả sống, xanh và tươi rửa không sạch, nên dễ dẫn đến tình trạng tieu chảy cấp xảy ra là điều khó tránh khỏi, nhất là trẻ em và đang sống, sinh hoạt, vui chơi và lứa tuổi học đường trong môi trường đông đúc. Theo số liệu thống kê của các bệnh viện nhi như Bệnh viện nhi đồng I và bệnh viện nhi đồng II (TP. Hồ Chí Minh), bệnh viện nhi Trung ương (Hà Nội), các khoa nhi tại các bệnh viện tỉnh thành trong cả nước số trẻ tiêu chảy phần lớn tập trung và đến khám hoặc nhập viện vào tháng 3, tháng 9-10, chiếm gần một phần ba số giường bệnh nội trú của khoa. Điều đáng lo ngại và cần quan tâm là bệnh tiêu chảy không quá nguy hiểm nhưng nếu thiếu kiến thức sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường, thậm chí tử vong.  |
| Vi khuẩn E.Coli |
Những nguyên nhân và yếu tố thuận lợi gây bệnh tiêu chảy cấp:Bệnh tiêu chảy xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân, đa dạng với đa tác nhân khác nhau, dưới đây là một số tác nhân thường gặp:
1. Do nhóm vi khuẩn: Vi khuẩn thương hàn (salmonella typhi), phó thương hàn (salmonella paratyphi), tụ cầu (staphylococcus), phẩy khuânt (V.cholera),… vi khuẩn E.coli gây ra tiêu chảy (thường gặp cho người đi du lịch) thường được thấy trong thức ăn như trái cây, rau cải, đồ biển, thịt sống, nước và nước đá.
Một số khác gây viêm ruột, xâm nhập trực tiếp của vi khuẩn vào lớp trong của vách ruột non, đại tràng và gây viêm. Vi khuẩn này bao gồmtrùng này bao gồm : campylobacter hỗng tràng, chủng E.coli xâm nhập (như EPEC), shigella và salmonella. Những bệnh này thường mắc phải do uống nước ô nhiễm, ăn thức ăn lây nhiễm như rau cải, thịt gia cầm và những sản phẩm làm từ bơ.
Vi khuẩn Clostridium difficile ảnh hưởng đến đại tràng. Thay vì xâm nhập vào đại tràng, nay nó tạo ra độc tố gây viêm đại tràng, kiểu nhiễm trùng này thường xảy ra nhất trong những bệnh nhân đang dùng kháng sinh hoặc vừa dùng xong một đợt kháng sinh.
2. Do nhóm virus: Rotavirus, parvovirus nhiễm virus của dạ dày và ruột là nguyên nhân rất thường gặp trong tiêu chảy; vi rút Norwalk cũng gây tiêu chảy cấp.
3. Do nhóm ký sinh trùng: Amíp Entamoeba histolityca, lỵ trực trùng, trùng roi, Giardia lamblia,… Giardiasis là bệnh tiêu chảy do đơn bào, thường nhất là nhiễm trùng ruột non ở trẻ em, khách du lịch và những người thường sống không cố định, dùng nước ô nhiễm ở các ao hồ, kênh rạch. Nó là nguyên nhân thường gặp ở những trẻ không được giáo dục vệ sinh ở những nhà trẻ, chúng cũng có thể gây ra tiêu chảy mãn tính với phân hôi, phù và giảm cân.
4. Do nhiễm độc: các chất như thủy ngân, Asen.
5. Ngộ độc: thịt động vật, động vật (cá nóc, thịt cóc) hay thực vật (nấm độc), toan máu; độc tố của vi trùng, với một số vi khuẩn thì độc tố được tạo ra trong thức ăn trước khi ăn nhưng cũng có một số vi khuẩn khácthì độc tố xảy ra sau khi thức ăn được ăn vào (những trường hợp độc tố được tạo ra trước khi ăn thì triệu chứng xuất hiện trong vòng vài giờ. Trong khi thời gian ngộ độc dài hơn so với những trường hợp độc tố được tạo trong ruột).
6. Nguyên nhân khác: Dị ứng thức ăn (thịt rừng, hải sản, rau quả, thành phần các chất trong thức ăn khác nhau). Hội chứng kém hấp thu (Malabsorption Syndrome), chẳng hạn carbohydrate được hấp thu kém cũng là nguyên nhân gây tiêu chảy. Khi nó không được hấp thụ ở ruột, nó tích tụ dịch trong đại tràng và vi khuẩn sử dụng nó sinh ra hơi, lượng carbohydrate quá nhiều trong ruột có thể sinh hơi, quặn, và tiêu chảy.Hội chứng ruột kích thích (Irritable Bowel Syndrome), nghiện rựợu hoặc uống rượu nhiều (Excessive alcohol usage). Bất dung nạp lactose (lactose intolerance), bất dung nạp sorbitol (Sorbitol intolerance), bệnh lý tụy , đau bụng kinh, thời kỳ mãn kinh (menopause), bệnh khô miệng (dry mouth), suy nhược, suy giảm miễn dịch,…Lactose là một carbohydrate được tìm thấy trong sữa và trong những sản phẩm của bơ. Những người không dung nạp lactose vì trong ruột non có men lactase thấp, một carbohydrate khác hấp thu kém là sorbitol, thường có trong kẹo cao su, kẹo bạc hà không đường hoặc thức ăn hoặc fructose thường thấy trong trái cây và rượu nhẹ cũng là loại carbohydrate kém hấp thu.
Dùng thuốc (gây tiêu chảy màng giả hay xuất tiết). Thuốc thường gây ra tiêu chảy là antacid, thuốccó chứa magie, thuốc kháng viêm non- steroid (NSAIDs), hóa trị liệu, kháng sinh, thuốc chống loạn nhịp và thuốc trị cao huyết áp và thuốc khác (misoprostol, cytotec, quinidine, olsalazine, colchicine, metoclopramide và cisapride). Viêm tai xương giữa, viêm ta xương chủm, bấn loạn tinh thần (lo lắng hay sợ hãi quá mức). Vệ sinh ăn uống và môi trường nhiễm bẩn (ăn rau quả sống không rửa kỹ, nguồn nước bị ô nhiễm, thức ăn và nước uống để ruồi nhặng vây vào,…).
|
Rotavirus |
Tóm lại, do ăn uống không đảm bảo vệ sinh nên vi khuẩn, virus, ký sinh trùng, các chất độc xâm nhập đường tiêu hóa và gây tiêu chảy.
7. Yếu tố thuận lợi:
Không rửa tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiện, ăn rau sống rửa không sạch, uống nước lã chứa nhiều tác nhân hoặc vi khuẩn gây bệnh. Trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ hoặc mắc một số bệnh như sởi, suy dinh dưỡng,....người già suy dưỡng, bệnh mạn tính (đái đường, ung thư, miễn dịch,…
Các triệu chứng lâm sàng nổi bật:
Tiêu chảy có thể bao gồm nhiều hội chứng khác nhau, biểu hiện đặc trưng bởi sự đẩy phân nhanh, phân nhiều nước và khối lượng trên 300g/ngày. Tùy theo tiêu chảy do tác nhân nào mà bệnh nhân tiêu chảy cấp có những triệu chứng khác nhau, cường độ và độ trầm trọng khác nhau, chẳng hạn trong những trường hợp ngộ độc thức ăn muộn, sau ăn 7-15 giờ mới xuất hiện triệu chứng. Như khi ăn thức ăn chứa độc tố hoặc những vi khuẩn tạo nên độc tố thì thường có đau bụng, tiêu chảy, ói rất sớm. Những triệu chứng do độc tố trong thức ăn thì thường kéo dài ít hơn 24 giờ. Dù sao đi nữa, hầu hết các bệnh nhân tiêu chảy đều có một hoặc nhiều triệu chứng sau đây:
Khởi phát bệnh từ từ, lâm râm hay đột ngột; có kèm hay không kèm đau bụng trước đó; số lần đi cầu có thể ít (3-5 lần/ngày) hay nhiều (10-20 lần/ngày); lượng phân có thể nhiều/ ít tùy vào lượng thức ăn trước đó và quá trình sinh các chất, phân lỏng, không thành khuôn; phân có thể kèm theo máu, nhầy, lớp hủy hoại niêm mạc, tế bào hoại tử,…; đau bụng (đau từng cơn hay liên tục, đau kèm mót rặn hoặc đau quanh hậu môn), cơn đau kiểu cramp, hoặc colic, giảm nhu động ruột nhất là người già; buồn nôn hoặc nôn (có thể nôn vọt hoặc nôn từng đợt); sốt có thể có hoặc không, nhất là ngộ độc thực phẩm và nhiễm khuẩn;
Một số hội chứng liên quan đến tác nhân gây bệnh như hội chứng nhiễm khuẩn (sốt, lưỡi bẩn, mệt nhọc…), nhiễm độc (tùy từng chất hoặc sản phẩm tiêu hóa vào cơ thể sẽ có biểu hiện khác nhau), mất nước và điện giải (khát nước, khô miệng, mắt trũng, da nhăn, tứ chi lạnh, chuột rút, rối loạn nhịp tim, tiểu ít hay không có nước tiểu…), trụy tim mạch (mạch nhanh và nhỏ, huyết áp thấp hay không đo được,…).Hội chứng tiêu hóa: ỉa chảy, phân loãng, nhiều nước, đi nhiều lần (có khi15-20 lần/ngày). Phân mùi chua hoặc khó ngửi, có nhiều mũi nhày hoặc có máu. Có thể nôn. Mất nước điện giải: nhẹ: quấy khóc, vật vã hoặc lờ đờ, khát nước, nước tiểu giảm khối lượng, khóc không có nước mắt, mắt trũng, miệng khô, thở nhanh, sâu hơn bình thường, mạch nhanh nhỏ, thóp lõm, huyết áp tụt.
Mật nước và điện giải do tiêu chảy có thể sẽ rất nguy hiểm nếu khong can thiệp kịp thời, nhất là khi người bệnh là trẻ sơ sinh và người già, sẽ có nguy cơ cao mất nước khó bồi phụ. Một hội chứng chỉ ra mất nước là: Miệng khô, khát nước nhiều; Tiểu ít hơn bình thường; Da khô; Nhức đầu nhẹ và suy nhược, mệt lả. Mất nước do tiêu chảy có thể chia làm 3 độ một cách đơn giản như sau:
- Độ 1 (mất nước nhẹ): Tiêu chảy khoảng 4-6 lần/ngày, không nôn và khát, tiểu tiện bình thường.
- Độ 2 (mất nước vừa): Tiêu chảy 5-10 lần/ngày, nôn và khát nước, mệt mỏi, tiểu ít, môi khô.
- Độ 3 (mất nước nặng): Tiêu chảy trên 10 lần/ngày, rất khát nước, tiểu ít hay không có nước tiểu, môi khô nẻ, li bì, mắt trũng sâu, da nhăn nheo.
Thái độ xử trí:
 |
Bệnh nhân ở ngoài hành lang Viện Các bệnh truyền nhiễm và nhiệt đới quốc gia hôm qua - Ảnh:nguồn từ tuoitre.com.vn |
Một số điều không nên làm khi có người bệnh tiêu chảy:
Hiện nay bệnh tiêu chảy không còn lạ gì với tất cả cộng đồng, song một số người vìlý do nào đó chẳng hạn như thương con hoặc mong người thân sớm hồi phục đã tự ý xử trí một số khâu không đúng với thường thức y học khiến cho bệnh diễn tiến bệnh nặng hơn; thậm chí nhiều người cho rằng khi trẻ bị tiêu chảy nếu cho uống nhiều nước thì sẽ “đi” nhiều hơn nên trẻ sẽ mệt. Họ không biết được rằng, bị tiêu chảy sẽ rất nguy hiểm có thể dẫn đến tử vong nếu không được bù nước và chất điện giải đã bị mất theo phân (ca bệnh nhi ở quận 8, thành phố Hồ Chí Minh là một điển hình) hoặc một số khác, khi thấy con bị tiêu chảy lại cho uống nhiều nước ép trái cây ngọt, thức uống có cà phê, nước giải khát sẽ làm cho bệnh tiến triển nặng hơn cơ chế tiêu chảy thẩm thấu, mất nước nhiều hơn, người bệnh có thể trầm trọng hơn.
Tiêu chảy có thể diễn tiến nặng, cấp bách và đe dọa mạng sống người bệnh, nhất là các đối tượng trẻ em và người già dễ mất nước nặng nên chúng ta không nên trì hoãn mà phải xử trí ngay trong vòng 2-4 giờ đầu sau khi có triệu chứng. Không có thuốc giảm đau nào có thể kiểm soát được cơn đau do tiêu chảy cấp nên bạn không nên dùng bất kỳ thuốc giảm đau nào đang có.
Nguyên tắc điều trị tiêu chảy: theo hướng dẫn của Bộ Y tế cần bù lại nước kịp thời, cân bằng điện giải và nuôi dưỡng bệnh nhân
Bồi phụ nước và điện giải: Mất nước xảy ra khi mất nhiều dịch và chất điện giải trong cơ thể, thường xảy ra trong những bệnh nhân tiêu chảy cấp với lượng phân mất quá lớn và ở những đứa bé hoặc sơ sinh, người lớn tuổi bị nhiễm virus hoặc vi khuẩn. Những bệnh nhân mất nước nhẹ có thể có khát và khô miệng (bệnh nhân có thể cho điều trị và chăm sóc tại nhà). Mất nước từ trung bình đến nặng có thể gây ra những triệu chứng nghiêm trọng như ngất tư thế (ngất do đứng lên làm giảm lượng máu và làm hạ huyết áp tư thế), giảm lượng nước tiểu, mệt, sốc, suy thận, lú lẫn, toan máu và hôn mê.
Trước khi điều trị, cần thiết thực hiện các xét nghiệm phân (soi phân tươi hoặc cấy phân), điện giải đồ, công thức máu, hematocrit, kháng sinh đồ (nếu có điều kiện), chức năng gan, thận, tim mạch…
Trong điều trị tiêu chảy cấp bù nước kịp thời và đầy đủ là yếu tố quyết định thành công, có thể dùng Oresol 1 gói pha với 1 lít nước đun sôi để nguội hoặc gói Electrolade 5g với 250ml nước hay viên Hydrid (1 viên) với 100ml nước cho uống (khi bệnh nhân còn uống được); nếu chưa có sẵn gói Oresol, có thể dùng 1 thìa cà phê muối (3,5g), 8 thìa cà phê đường (40g) pha vào 1 lít nước hoặc dùng bột gạo nấu thành nước cháo: bột gạo 50g (5 thìa canh), muối 3,5g (1 thìa cà phê), 1 lít nước; đun sôi 2-5 phút; cho thêm vài thìa nước quả vào cháo để bổ sung kali. ORS được sử dụng cho những trường hợp tiêu chảy kèm mất nước ở những trẻ trên 10 tuổi và người lớn, những dung dịch này nên cho trung bình 50ml/kg/ 4-6 giờ đối với mất nước nhẹ và 100ml/kg/6 giờ trong những trường hợp mất nước trung bình. Sau khi bù nước, dung dịch ORS có thể được sử dụng duy trì lượng nước từ 100ml-200 ml qua 2 giờ cho đến khi ngừng tiêu chảy, theo dõi và điều chỉnh lượng thích hợp theo cân nặng của bệnh nhân. Sau khi bù mất nước thì những trẻ lớn và người lớn nên được cho ăn khô ngay khi hết nôn và buồn nôn. Hầu hết những sản phẩm thương mại dạng ORS đều chứa đường, Infalyte là chất duy nhất chứa carbohydrate của gạo thay cho glucose. Về hiệu quả, không có sự khác nhau đáng kể giữa glucose và carbohydrate của gạo so với trong gói ORS, thuốc pha xong phải dùng trong 24 giờ và bảo quản trong tủ lạnh. Bồi phụ nước và chất điện giải bằng các đường uống, tiêm truyền tĩnh mạch hoặc dùng ống thông mũi-dạ dày (một số dung dịch tiêm truyền như glucoza 5%, ringer lactat, ...
Nuôi dưỡng người bệnh: không nên kiêng khem tránh thiếu hụt chất dinh dưỡng cho bệnh nhân. Nếu là trẻ em, ngay sau khi bồi phụ nước điện giải, có thể cho trẻ bú và ăn ngay. Những trẻ nuôi bằng sữa bò sau khi bù đủ nước điện giải, cho trẻ ăn sữa loãng hơn bình thường hoặc cho ăn sữa pha với dung dịch Oresol (1/3 sữa pha với 2/3 Oresol). Dần dần cho ăn theo chế độ bình thường, khi trẻ khỏi bệnh, mỗi ngày cho ăn thêm một bữa trong một tuần để cháu chóng phục hồi. Khi bé bị tiêu chảy cấp, cha mẹ nên tuân thủ theo chế độ ăn đảm bảo đủ năng lượng và các chất dinh dưỡng. Cụ thể: với trẻ dưới 7 tuổi cần đảm bảo cung cấp 60- 80 Kcal/kg/24 giờ, protid chiếm 8-10% và lipid chiếm 10% tổng năng lượng; với trẻ đang bú mẹ, cần cho bé bú mẹ nhiều lần một ngày; trẻ từ 7 – 15 tuổi đảm bảo 40- 60 Kcal/kg/24 giờ tùy theo tuổi.
Để bé có thể ăn được nhiều, đảm bảo cung cấp đủ năng lượng theo tiêu chuẩn, bạn nên chế biến các món ăn dễ tiêu từ dạng lỏng đến đặc dần tuỳ thuộc vào lứa tuổi; nên lựa chọn các thực phẩm mềm, ít xơ sợi, dễ tiêu hoá, không sinh hơi, không gây dị ứng, hút độc, làm đặc phân. Đặc biệt cần phải giảm các loại đường hấp thu nhanh, chứa ít hoặc không có đường lactose. Nhóm thực phẩm có nhiều kẽm, vitamin A hoặc beta caroten được ưu tiên dùng cho những trường hợp bị tiêu chảy cấp, kích thích sự phát triển và bổ sung vi khuẩn có ích cho đường ruột. Cha mẹ cũng không nên ép con ăn no trong một bữa, như vậy sẽ làm trẻ sợ ăn hơn; cách tốt nhất là nên chia nhỏ làm nhiều bữa ăn trong ngày, có thể chia nhỏ từ 6-8 bữa/ngày tuỳ theo lứa tuổi, nếu là trẻ lớn và người lớn đã dần hồi phục thì cho ăn uống nhẹ và đầy đủ chất dinh dưỡng. Việc cho ăn nên ngắt quãng trong những trường hợp có nôn, ói; nên được bắt đầu với gạo, ngũ cốc, khoai tây và những thức ăn ít mỡ, không có lactose. Trong thời gian tiêu chảy do virus và một thời gian ngắn sau khi hồi phục thì cơ thể có thể không dung nạp lactose do sự khiếm khuyết tạm thời men lactase. Những bệnh nhân không dung nạp glucose có thể làm tiêu chảy càng nặng hơn khi ăn những sản phẩm của bơ, do vậy sau thời gian bù nước bằng ORS thì thức ăn không có lactose không được pha loãng và nước trái cây pha loãng nên được dùng. Những sản phẩm của sữa nên được tăng dần khi trẻ hồi phục.
Vai trò của vi chất kẽm trong trị liệu tiêu chảy: trong 30 năm trở lại đây, kẽm được coi là một vi chất dinh dưỡng cần thiết trong chế độ dinh dưỡng, nhất là phụ nữ, bà mẹ mang thai và trẻ em. Hiện Tổ chức y tế thế giới (WHO) và Tổ chức UNICEF khuyến cáo dùng kẽm trong điều trị tiêu chảy cấp ở trẻ em vì vi chất kẽm làm tăng khả năng miễn dịch, là vi chất quan trọng trong quá trình nhân bản AND, tổng hợp protein đối với cơ thể, đặc biệt là ở trẻ nhỏ, kẽm đóng vai trò then chốt trong quá trình phát triển của hệ tiêu hoá, tăng cường quá trình chuyển hoá, nhất là đối với trẻ bị suy dinh dưỡng qua nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới. Kẽm đã nằm trong thành phần của viên đa vi chất dinh dưỡng dùng để phòng chống thiếu vi chất cho mọi người; mặc dù kẽm có tác dụng chữa bệnh tiêu chảy cấp nhưng cũng không nên cho trẻ tuỳ tiện dùng mà cần có sự tư vấn của bác sĩ nhằm mang lại hiệu quả cao trong chữa bệnh và tác dụng phụ khác;
Sử dụng thuốc kháng sinh và men tiêu hóa: đa số tiêu chảy ở trẻ em là do virus và thường tồn tại thời gian ngắn. Kháng sinh không nên dùng trong những trường hợp tiêu chảy do virus. Thậm chí một số có biểu hiện tiêu chảy do vi khuẩn, nhưng chúng ta cũng không nên dùng vội vì có thể tác dụng ngược lại. Tuy nhiên nếu sốt, ói, và phân lỏng có thể kèm những nhiễm trùng khác như viêm tai giữa, viêm phổi, nhiễm trùng niệu, nhiễm trùng máu và viêm màng não nên cân nhắc và lựa chọn kháng sinh thích hợp. Các thuốc trị tiêu chảy thường dùng có tác dụng làm mất hoặc giảm triệu chứng bằng cách này hay cách khác, có thể thuốc làm giảm sự co thắt của ruột, giảm sự tiết dịch qua phân hoặc làm cân bằng hệ vi khuẩn ở ruột và thuốc điều trị nguyên nhân (có thể các loại kháng sinh) do đó người bệnh bớt, giảm rối loạn tiêu hóa, giảm đại tiện. Theo cơ chế tác dụng, thuốc dùng trong tiêu chảy cấp được chia làm 3 loại
(1) Thuốc làm giảm nhu động ruột là thuốc cho tác dụng cầm tiêu chảy nhanh, mạnh nhưng phải rất thận trọng vì có nhiều tác dụng phụ. Đặc biệt, có thuốc gây nghiện và không được dùng cho em, ví dụ paregoric chứa cao thuốc phiện (gây nghiện), chống chỉ định đối với trẻ dưới 5 tuổi; Diphenoxylat, Loperamid là thuốc tổng hợp không gây nghiện, ít tác dụng hơn nhưng vẫn tránh dùng ở trẻ dưới 2 tuổi.
(2) Thuốc là vi sinh vật giúp ổn định tạp khuẩn ruột Trong ruột già của chúng ta có rất nhiều vi khuẩn, gọi là hệ tạp khuẩn ruột. Khi hệ này bị rối loạn, vi khuẩn có ích bị chết đi, một số vi khuẩn gây bệnh tăng sinh thì sẽ dẫn đến tiêu chảy. Hiện có nhiều thuốc là chế phẩm chứa các vi sinh vật có ích như men, vi khuẩn... giúp tái lập cân bằng của hệ tạp khuẩn ruột.
(3) Thuốc là chất hấp phụ: Chất hấp phụ là chất trơ về mặt hóa học và có cấu trúc đặc biệt để hút giữ những thứ làm kích thích niêm mạc như vi khuẩn, độc tố vi khuẩn, siêu vi, khí sinh ra trong ống tiêu hóa khi được thải ra ngoài, nó kéo theo các chất đã hút giữ. Chất hấp phụ không hòa tan và không được hấp thu nên tương đối an toàn, thích hợp để điều trị tiêu chảy có kèm chướng bụng, tiêu chảy do đường tiêu hóa bị nhiễm độc (ngộ độc thức ăn, nhiễm khuẩn). Than hoạt tính là chất hấp phụ đã được dùng thường được phối hợp với thuốc chống co thắt, thuốc diệt khuẩn đường ruột. Chỉ dùng thuốc hấp phụ trước hoặc sau khi dùng thuốc khác ít nhất 2 giờ, nếu không, chất hấp phụ sẽ cản trở sự hấp thu của thuốc uống cùng với chúng.
Giới thiệu một số thuốc có tính chất hấp phụ:Attapugite là loại thuốc uống không hấp thu mà được dùng điều trị tiêu chảy, cơ chế của nó là gắn kết với một số lớn vi khuẩn, độc tố và ngăn ngừa mất nước. Attapugite giảm tần số nhu động ruột, làm cứng phân và giảm quặn bụng là triệu chứng thường liên quan đến tiêu chảy. Những sản phẩm chứa Attapugite bao gồm Donnagel, Kaopectate, và Diasorb. Polycarbophil (Equalavtin) là một nhựa thông tổng hợp mà hoạt động giống như chất hấp phụ, khả năng hấp thụ của nó lên đến 60 lần so với trọng lượng của nó trong nước. Attapulgite và polycarbophil không được hấp thụ vào máu và như thế không có ảnh hưởng phụ ngoài đường tiêu hoá. Nói chung chúng được dung nạp tốt nhưng đôi khi táo bón và đầy hơi cũng có thể xảy ra. Những chất hấp phụ có thể hấp thụ những thuốc được dùng chung và cản trở sự hấp thụ của những thuốc này. Những bịnh nhân đang dùng những thuốc khác thì nên báo cho bác sĩ và dược sĩ biết để chú ý nhằm ngăn ngừa sự gắn kết của những thuốc này với chất hấp phụ. Về phương diện dược lâm sàng, thuốc điều trị tiêu chảy cũng có thể chia ra làm hai nhóm khác nhau:
(1) Thuốc dùng cho các tác nhân gây bệnh không đặc hiệu: than thảo mộc 5-10 g hay Loperamide 2 mg. Người lớn khởi đầu 2 viên, tiếp theo dùng 1 viên mỗi lần đi cầu phân lỏng, tối đa 8 viên/ngày x 5 ngày, hay Lopedium 2mg liều như trên. Hai loại này không dùng khi tắc ruột, không dùng cho trẻ dưới 2 tuổi, có sốt hay phân lẫn máu, viêm loét kết tràng cấp tính hay màng giả, phụ nữ có thai và cho con bú. Cục Quản lý dược và thực phẩm của Mỹ (FDA) chấp nhận loperamide (imodium) trong việc điều trị giảm tiêu chảy cấp và tiêu chảy mãn trong những trường hợp bịnh viêm ruột (bịnh Crohn và viêm loét đại tràng). Hiệu quả của loperamide có thể so sánh với diphenoxylate (Lomotil). Mặc dù Loperamide có thành phần hóa học liên quan với á phiện như codeine và morphine, nhưng nó không có tác dụng giảm đau như á phiện. Hơn nữa ở liều dùng cho tiêu chảy loperamide không gây nghiện. Lomotil là phức hợp hai thuốc diphenoxylate và atropine được sử dụng để điều trị tiêu chảy cấp. Mặc dù diphenoxylate là một loại á phiện nhân tạo mà thành phần hóa học của nó liên quan với meperidine (Demerol), nó không có tính chất giảm đau như những narcotic khác. Tuy nhiên ở liều cao như những á phiện khác diphenoxylate có thể gây ra sảng khoái và phụ thuộc thuốc. Ðể ngăn ngừa sự lạm dụng Diphenoxylate đối với những ảnh hưởng về tính sảng khoái người ta thêm vào một lượng nhỏ atropine. Vì thế nếu Lomotil được dùng cao hơn liều được khuyên thì những ảnh hưởng phụ do quá nhiều atropine sẽ xảy ra.
(2) Thuốc dùng cho các tác nhân gây bệnh đặc hiệu: do vi khuẩn thương hàn và phó thương hàn, lỵ trực trùng gây tiêu chảy thì dùng Ciprofloxacin 500mg, 1 viên ´ 2 lần/ngày ´ 5-7 ngày, Ofloxacin, Levofloxacin... Nếu kháng các loại trên, thay bằng Azithromycin. Nếu do E.coli, dùng Levofloxacin 500mg 1 viên ´ 2 lần/ngày ´ 3 ngày. Ceftazidine v.v... Do lỵ amíp dùng Émetin, Klion v.v... Do dị ứng: Cézil 10mg 1 viên/ngày, Clarityne, Loratidine, Glora, v.v...
Một số thuốc thường dùng nhằm giải quyết triệu chứng: Bismuth subsalicylates (tên biệt dược là Pepto-Bismol) là một trong những thuốc tốt để điều trị triệu chứng tiêu chảy, kiểm soát được con đau quặn, giảm phân lỏng, giảm độc tố ruột và co thắt nhu động ruột, thuốc an toàn cho cả trẻ em và người lớn. Kaopectate là dạng nhũ dịch, có tính chất hấp phụ, thuốc này sẽ giảm kích thích nhu động ruột. Loperamide được bán trên thị trường với nhiều tên biệt dược khác nhau: Imodium, Kaopectate II, Maalox Anti-Diarrheal và Pepe Diarrhea Control. Loperamide tác dụng làm chậm nhu động ruột. Calcium polycarbophil được thử nghiệm gần đây qua nhiều công trình nghiên cứu, cho thấy chúng điều trị triệu chứng như một số thuốc đề cập ở trên và có tác dụng cân bằng nước trong ruột.
Đề phòng tiêu chảy:
Cần ăn chín, uống sôi, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Ăn rau quả sống phải rửa thật kỹ (tốt nhất rửa trực tiếp dưới vòi nước), thức ăn phải đậy kỹ để tránh ruồi nhặng; không ăn thức ăn bị ô nhiễm, không đi cầu ra sông, xuống ao, ra đồng; không ăn thịt các loại động vật như cá nóc, cóc, các loại nấm chưa biết rõ.