!important; Khu vực miền Trung-Tây Nguyên ngoài vấn đề bệnh sốt rét lưu hành nặng nhất so với cả nước, nguy cơ nhiễm bệnh giun sán cũng rất cao.
Kết quả điều tra của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn trong giai đoạn 1989-2005 cho thấy tỷ lệ nhiễm giun sán chung từ 60-80%, trong đó cùng với sự lưu hành của sán lá gan nhỏ (Opisthorchis viverini) ở một số tỉnh như Phú Yên, Bình Định, Đăk Lăk, Kon Tum, Quảng Ngãi… sán lá gan lớn (Fasciola gigantica) đang là vấn đề bức xúc của người dân trong toàn khu vực. Nguyên nhân nhiễm sán lá gan lớn là do ăn sống thực vật thủy sinh như rau ngổ, rau cải xoong, rau muống nước hay uống nước lã có ấu trùng. Bệnh sán lá gan lớn gây nên những triệu chứng cấp tính rầm rộ như sốt, đau hạ sườn phải hoặc vùng thượng vị nên dễ nhầm với các bệnh về gan mật hoặc dạ dầy; người bệnh mệt mỏi, kém ăn, rối loạn tiêu hóa, xét nghiệm máu bạch cầu ái toan tăng, siêu âm phát hiện thấy các tổn thương về gan. Hậu quả bệnh sán lá gan lớn có thể dẫn tới tử vong do vỡ bao gan, xuất huyết hoặc sốc nhiễm trùng do viêm phúc mạc ảnh hưởng đến sức lao động sản xuất và đe dọa tính mạng cũng như sức khỏe của cộng đồng.
  !important;
 |  |
| Thói quen ăn rau sống- một trong những nguyên | nhân gây bệnh sán lá gan lớn |
Được sự quan tâm của Bộ Y tế và sự hỗ trợ kinh phí của Tổ chức Y tế thế giới, từ 2003-2006 Viện đã tiến hành hai đề tài cấp Bộ nghiên cứu về dịch tễ học và thử nghiệm thuốc mới Triclabendazole điều trị sán lá gan lớn. Kết quả nghiên cứu đã xác định loài sán lá gan lớn Fasciola gigantica ở 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa với tỷ lệ nhiễm ở cộng đồng từ 4-11% và tỷ lệ điều trị khỏi bệnh bằng thuốc Triclabendazole liều 10 mg/kg/24 giờ đạt 80% với các trường hợp nhiễm nhẹ và 20 mg/kg/24 giờ đạt 100% với các trường hợp nhiễm nặng. Tuy nhiên, để xác định đúng thực trạng nhiễm sán lá gan lớn và biện pháp phòng chống có hiệu quả cần phải thực hiện một đề tài cấp Nhà nước trong thời gian từ 3-5 năm ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên.
|
Cán bộ kỷ thuật của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đang kiểm tra xác định sán lá gan. |
  !important; Trong thời gian từ tháng 11/2004 đến tháng 2/2006, Phòng khám chuyên khoa của Viện đã thu dung điều trị khoảng 1500 bệnh nhân sán lá gan lớn đến từ 15/15 tỉnh miền Trung-Tây Nguyên. Đặc biệt từ đầu năm 2006 đến nay số lượng bệnh nhân đến khám, xét nghiệm và điều trị tại Viện ngày càng gia tăng; theo số liệu thống kê của Phòng khám chuyên khoa Viện, số bệnh nhân sán lá gan lớn/tổng số bệnh nhân trong tháng 1/2006 là 115/151 (76,16%), tháng 2/2006: 242/273 ca (88,64%), tháng 3/2006: 418/501 (83,43%); cùng thời gian đó, các bệnh viện tỉnh trong khu vực số bệnh nhân sán lá gan lớn cũng ngày càng gia tăng, tuy nhiên kinh nghiệm phát hiện và chẩn đoán còn nhiều hạn chế do đó nhu cầu tập huấn và cung ứng thuốc điều trị đặc hiệu là hết sức cần thiết. Bệnh sán lá gan lớn hiện nay đã trở thành mối quan tâm lớn của cộng đồng, ngành y tế cũng như các phương tiện thông tin đại chúng trung ương và địa phương.
  !important; Đứng trước tình hình bức thiết như trên Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn đã có Công văn số 72/VSR-KH ngày 22/3/2006 cảnh báo tình hình nhiễm bệnh sán lá gan lớn và Tờ trình số 87/VSR-TT ngày 3/4/2006 đề nghị lãnh đạo Bộ Y tế phê duyệt kinh phí bổ sung, cung ứng thuốc điều trị đặc hiệu để kịp thời triển khai thực hiện các biện pháp phòng chống bệnh sán lá gan lớn tại khu vực.
Để giải quyết tình hình nhiễm bệnh giun sán nói chung và bệnh sán lá gan lớn nói riêngcần tập trung giải quyết một số giải pháp trước mắt như sau:
-Đầu tư kinh phí thực hiện vàmở rộng các điểm điều tra giun sán, đặc biệt là sán lá gan lớn để xác định mức độ phân bố.
-Tập huấn chuyển giao kỹ thuật chuyên môn về chẩn đoán, điều trị bệnh sán lá gan lớn cho các tuyến trong khu vực.
-Chỉ đạo thực hiện các phác đồ điều trị và cung cấp thuốc đặc hiệu cho các tuyến bệnh viện !important; tổ chức truyền thông giáo dục phòng chống bệnh giun sán cho cộng đồng có nguy cơ nhiễm bệnh cao.
-Tăng cường các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực phòng chống bệnh giun sán.
  !important;
  !important;
  !important;