1. Một nghiên cứu mới được công bố ngày 21 tháng 6 năm 2006 do nhóm nghiên cứu các nhà khoa học khoa xét nghiệm sinh học giun sán , Viện nghiên cứu y khoa Queensland, Australia, đứng đầu là Tiến sĩ Alex Loukas. Họ đang và đang bào chế một loại vaccine chống lại ký sinh trùng sán lá trong máu, một bệnh do ký sinh trùng ảnh hưởng lên sức khỏe của hơn 200 triệu dân trên toàn thế giới. Cơ chế bảo vệ của vaccine này hoạt động thông qua kích thích hệ thống miễn dịch cơ thể, hình thành cơ chế bảo vệ và chống lại ký sinh trùng sán lá. Qua thử nghiệm ban đầu cho thấy vaccine làm giảm tỷ lệ nhiễm và phát bệnh sán lá trên 60%. Tiến sĩ Alex Loukas cho biết vaccine có thể cứu sống hàng ngàn người vì đây là giải pháp thực tế hơn là liệu pháp điều trị đặc hiệu như hiện nay, nghĩa là “phòng bệnh hơn chữa bệnh” (prevention is better than cure), ông Loukas nói thêm: “có những loại thuốc có thể tiêu diệt tận gốc ký sinh trùng song nếu còn nhiễm thì người đó phải mang thuốc trong mình suốt đời”, vaccine này có thể bảo vệ cho họ trong 5-10 năm thay vì người đó sẽ phải điều trị trong vài lần trong năm. Hiện vaccine này đang được thử nghiệm trên động vật và đang chờ quỹ tài trợ để thử nghiệm trên con người.
2. Gần đây, các động vật bị nhiễm sán lá gan lớn (SLGL) được điều trị với thuốc đặc hiệu triclabendazole. Tiếc thay, vũ khí lợi hại (conventional weapons) này đang trở nên rộng rãi do sự gia tăng kháng thuốc của loài sán đói với các thuốc đặc hiệu này. Trong bối cảnh thiếu một loại thuốc mới để chế ngự tình trạng kháng thuốc và tìm một giải pháp thuốc thay thế nhằm tránh đề kháng này là việc cần thiết.
Một chiến lược mới đầy hứa hẹn nhát đẻ chống lại loài ký sinh trùng này là công tác chủng ngừa. Để một vaccine đạt được sự chọn lựa nhất là phải có đặc tính an toàn, không gây hại cho môi trường và được sự chấp nhận người tiêu dùng, đặc biệt vaccine đó không có lượng tồn dư về hoá chất (chemical residues) trong thịt cũng như trong sữa của con vật sau khi được tiêm chủng. Sản phẩm vaccine thông minh “smart weapon” mới này nhằm hạn chế sự tấn công của sán lá gan vào gan vật chủ trước khi chúng có cơ hội gây ra các tổn thương đáng kể.
Nguyên tắc cơ bản của chủng vaccine là con vật đó được tiêm vaccine (thường là một sản phẩm từ tác nhân nhiễm đã được giảm độc tính hoặc chết). Điều này sẽ tạo ra đáp ứng miễn dịch, cho phép vật chủ nhận ra và khống chế các đợt tấn công của SLGL vào vật chủ sau đó. Việc chế tạo ra một vaccine cho ký sinh trùng khó gấp trăm ngàn lần so với chế một vaccine chống lại virus bởi hai lý do chính: thứ nhất là bất kỳ một loài ký sinh đơn giản nào chăng nữa cũng có mức độ gen di truyền phức tạp gấp 12.000 lần loài virus điển hình; thứ hai là về chu kỳ sinh học của nó rất đa dạng cấu trúc và nhiều giai đoạn và qua nhiều vật chủ trung gian khác nhau trong suốt quá trình phát triển của chúng. Chính vì lẽ đó, quy trình để tạo ra một loại vaccine tấn công vào đích đặc hiệu của sán lá gan lớn là rất khó khăn. |
Chu kỳ phát triển của sán lá gan lớn 1.Trứng từ đường mật được đào thải ra ngoài theo phân 2.Trứng rơi xuống môi trường nước 3. Miracidium nở ra từ trứng 4. Ốc trung gian truyền.bệnh và ấu trùng sán phát triển trong ốc qua 3 giai đoạn(4e.4b.4c.) 5. Cercaria rời khỏi ốc bơi trong nước 6. Metacercana trong thực vật thuỷ sinh 7,8. Động vật ăn cỏ hoặc người ăn ấu trùng sán từ thực vật thuỷ sinh hoặc nước lã, ấu trùng vào dạ dày, xuyên qua thành ống tiêu hoá và ổ bụng, xuyên vào gan ký sinh trong đường mật. |
Một chiến lược mới đòi hỏi khắc phục những trở ngại trên. mục đích của “vaccine thông minh” là khống chế trên động vật được tiêm chủng, với nguồn năng lượng của SLGL và bắtchúng dừng lại các chu chuyển phát triển đang dang dở. Để đạt được điều này, họ đã nghiên cứu làm thế nào biết được rõ bản chất các enzyme (của sán) đã giúp cho sán xâm nhập vào vật chủ để chống lại sán. Kết quả mang lại đầy hứa hẹn hơn họ tưởng, vaccine đã bảo vệ chống lại sán cho các vật chủ, giúp vật chủ giảm đến 66% tình trạng nhiễm cũng như số lượng sán so với nhóm không dùng vaccine.
Những công trình nghiên cứu tiếp theo nhằm tối ưu hoá về phân phối vaccine và chỉ định đường dùng vaccine. Nếu nó thành công, thì sản phẩm vaccine mang lại cho các trang trại chăn nuôi gia súc một biện pháp mới trong phòng chống bệnh SLGL trên gia súc của họ, được lợi về nhiều mặt cả hiệu quả, trong sạch môi trường và thúc đẩy lợi nhuận về chăn nuôi trong thời gian đến.
3. Một nghiên cứu khác vềvaccine tái tổ hợp chống lại bệnh sán lá gan lớn cho các vật nuôi trong nông nghiệp (A recombinant vaccine for the control of liver fluke diseases of Agriculture animals) của Viện công nghệ sinh học Ireland cũng cho biết thuốc đặc hiệu triclabendazole-thuốc duy nhất hiện nay điều trị bệnh SLGL đang có một tỷ lệ kháng lan rộng, không chỉ ở Ireland mà còn ở Hà Lan và Australia, tiếp đó các biện pháp khống chế không được thoả mãn. Từ đó, hướng mở ra là làm thế nào chế một loại vaccine ngăn ngừa cả giai đoạn cấp và mạn tính của bệnh là việc cần thiết và kết quả thử nghiệm lâm sàng bước đầu cho thấy có nhiều hứa hẹn.
4. Liên quan đến Cathepsin L proteinases xem như là một loại vaccine chống lại Fasciola hepatica ở động vật nhai lạido nhóm nghiên cứu Mulcachy và Dalton thuộc Khoa vi trùngvà KST thú y, ĐH quốc gia Ireland. Xuất phát từ ý tưởng rằng quần thể Fasciola hepatica đề kháng với thuốc đặc hiệu diệt sán, nên giải pháp đưa ra một thuốc mới để chống kháng là điều cần thiết, song điều đó đến nay vẫn nằm trong giai đoạn thử nghiệm. Tiến trình cho một loại vaccine chống lại sán lá gan lớn là tối ưu nếu nó rất có ích cho môi trường và được sự chấp nhận người tiêu dùng, mang lại lơinhuận kinh tế gia súc. Cathepsin L proteases bao gồm Fhe CL 1 và Fhe CL 2, được tiết ra bởi sán lá gan lớn ở tất cả các giai đoạn phát triển của chúng trong động vật có vú, chất này người ta cho rằng có đóng vai trò quan trọng trong cơ chế hỗ trợ ký sinh trùng di chuyển, gây hủy cấu trúc mô (tissue degradation), ăn và xâm nhập tạo ra miễn dịch. Các tác giả cân nhắnc về các điểm đích (targets) đầu tiên cho công trình chế tác vaccine. Qua nghiên cứu vaccine trên gia súc và cừu, kết quả cho thấy mức độ bảo vệ đạt đến 72-79%, có thể thu được sự miễn nhiễm do sử dụng loại vaccine chiết từ cathepsin Ls trong Freunds' adjuvant. Loại vaccine này cũng cho thấy một hiệu quả rất cao về khả năng tạo phôi thai và sinh sản (anti-embryonation/anti-fecundity effects) trên loài ký sinh trùng và do đó, chúng có tác động lớn lên sự lan truyền của bệnh đối với vật chủ trung gian. Trong khi sự nhiễm trùng tự nhiên ở cừu và gia súc dường như tạo ra một đáp ứng miễn dịch Th2 không bảo vệ, nghiên cứu này chỉ ra rằng sự bảo vệ sẽ giảm nếu tiêm chủng liên quan đến những yếu tố đáp ứng Th1.
5. Liên quan đến thành phần Glutathione S-transferase để chống lại Fasciola hepatica ở cừu do nhóm nghiên cứu của Sexton và cộng sựthuộc Viện nghiên cứu thú y, khoa y học nông nghiệp Attwood, Australia. Tiềm năng của GST được xem như một ứng cử viên vaccine chống lại sán lá gan lớn ở động vật nhai lại như cừu (n = 9), loại GST tinh khiết chiết từ sán trưởng thành của Fasciola hepatica và 500 metacercariae F. hepatica. Sự chủng ngừa miễn dịch tạo ra một lượng lớn kháng thể đối với đáp ứng GST, ngược lại, nó đáp ứng nghèo nàn với kháng nguyên hoặc mức đáp ứng không thể phát hiện được đối với kháng nguyên này (Ag) khi quan sát trên cừu bị nhiễm sán. Trong suốt quá trình thử nghiệm, quá trình nhiễm trùng sán được giám sát bằng cách đo nồng độ Hb trong hồng cầu, mức tổn thương gan và thải trứng ra phân của cừu. Kết quả phân tích chỉ ra răng có một tỷ lệ nhỏ (n =4) của số được chủng ngừa vaccine không có thiếu máu, giảm tổn thương gan và số lượng trứng/ phân trung bình thải ra ít hơn so với nhóm chứng và đặc biệt số lượng sán nhiễm cũng thấp hơn. Lượng sán trong gan ở nhóm chủng vaccine GST (107 +/- 22) là 57% tháp hơn so với nhóm chứng bị nhiễm mà khonog tiêm vaccine (250 +/- 25). 4/9 ca trong nhóm tiêm vaccine GST cho thấy giảm 78% lượng giun so với nhóm chứng. Những kết quả này cho thấy GST của sán F. hepatica trưởng thành là một kháng nguyên mới (novel Ag) mà chúng có thể bảo vệ cừu một cách đặc hiệu chống lại sán lá gan lớn. Kết quả cũng chỉ ra rằng đáp ứng miễn dịch đối với GST là trực tiếp tới việc làm giảm lượng sán non (juvenile worm) cho phép tin tưởng tạo ra một vaccineđặc hiệu cho động vật kháng lại loài sán này.
Tài liệu tham khảo
1. Liver fluke control strategy (2005). Copyright 2001 Harcourt Publishers Ltd.
2. Mulcachy G, Dalton JP et al., (2003). “Cathepsin L proteinases as vaccines against infection with Fasciola hepatica in ruminants”. Copyright 2001 Harcourt Publishers.
3. Sexton JL, Milner AR, et al.(1990). “Glutathione S-transferase. Novel vaccine against Fasciola hepatica infection in sheep”. http://www.ncbi.nih.ogr.com