Phân (tiếng Anh gọi là Feces, faeces hoặc stools) người, là một sản phẩm thải bỏ của hệ tiêu hóa người và sự xuất hiện của chúng có nhiều ý nghĩa khác nhau, lệ thuộc tình trạng tổng thể của hệ tiêu hóa, ảnh hưởng bởi tình trạng sức khỏe cũng như chế độ ăn uống hàng ngày. Thông thường, phân ở dạng nửa lỏng nửa đặc (semisolid) có bao phủ một lớp nhầy mỏng. Đôi khi các cục phân nhỏ, cứng, ít mềm có thể nhìn thấy do chúng bị nén chặt lâu ngày. Đây có thể là một xuất hiện bình thường trước khi nhu động ruột hoàn chỉnh và phân di chuyển từ ruột đến trực tràng có vấn đề, nơi mà nước hấp thu. Phân su (meconium) đôi khi đánh vần sai là merconium) là phân của các đửa trẻ mới sinh ra.
Quản lý phân là một vấn đề vệ sinh y tế công cộng, vì phân góp phần làm lan rộng bệnh tật và mầm bệnh chính yếu của ký sinh trùng đường ruột. Vấn đề quản lý phân trở nên hiệu quả kể từ khi con người bắt đầu cải thiện cuộc sống và các tiện nghi sinh hoạt đã sạch hơn rất nhiều. Toilet được biết đến trong thời kỳ Ấn Độ cổ đại (2.500 BC), trong thời đại Trung Quốc, Ai Cập và La Mã cổ đại và các toilet có nút ấn đẩy nước có từ thế kỷ 19 của Victorian England.
Mãi cho đến cuối thế kỷ 19, các quan điểm ban đầu về thu gom cống rãnh, chất thải ở các quốc gia phương Tây mới loại bỏ khỏi các khu vực dân cư sinh sống và họ thương dùng các nguồn nước cũng như các vật chứa nước lớn như là một nơi xả nước, ở đó có thể bị tiêu hủy tự nhiên. Cùng với sự gia tăng mật độ dân số nên vấn đề xử lý nước thải là cần thiết hơn bao giờ hết và cần phải có các quy trình xử lý chất thải đặc biệt. Song tại các quốc gia đang phát triển thì vấn đề này vẫn còn đang rất kém về chất lượng cũng như thiếu về số lượng.
Kiểm tra tại các la bô xét nghiệm phân
Phân đôi khi cũng được kiểm tra về mặt vi trùng học, tìm các tác nhân gây bệnh cũng như các loại ký sinh trùng khác trong đường ruột.
Các xét nghiệm sinh hóa cũng được làm trên mẫu bệnh phẩm phân bao gồm đo lường, đánh giá chất béo trong phân và chất elastase cũng như các thử nghiệm tìm máu ẩn trong phân chẳng hạn.
Các khuyến cáo khuyên rằng việc kết hợp lâm sàng và các dữ liệu cận lâm sàng, trong đó có xét nghiệm phân sẽ giúp chẩn đoán bệnh thấu đáo hơn các mẫu phân cũ thường không có giá trị và cho kết quả không như ý và ít có ý nghĩa trong đánh giá về mặt bệnh học. Hiện có 3 loại xét nghiệm vi trùng học thường tiến hành trên phân là:
-Thử nghiệm đánh giá kháng nguyên – kháng thể, đặc hiệu cho bệnh virus đặc biệt (chẳng hạn Rotavirus);
-Xét nghiệm vi thể để kiểm tra các ký sinh trùng và trứng trong phân;
-Cấy phân theo thường quy.
Cấy phân thường quy liên quan đến cấy phân theo vạch (streaking) trên các đĩa thạch agar chứa các chất phụ gia đặc biệt như thạch MacConkey ức chế phát triển của vi khuẩn Gram dương, các vi sinh vật có màng dày và sẽ cho phép chọn lọc các tác nhân đường ruột phát triển, ủ chúng trong một thời gian và quan sát khóm khuẩn (bacterial colonies) phát triển như thế nào.
Mô hình đặc điểm phân của Bristol (Bristol Stool Chart)
Trong mô hình phân của Bristol (Bristol Stool Chart) hay Bristol Stool Scale là bức tranh mô tả trợ giúp về mặt y học trong thiết kế và phân loại các dạng phân người thành 7 nhóm. Đôi khi tham khảo thêm tiêu chuẩn của Anh như "Meyers Scale" do tác giả K.W.Heaton tại đại học Bristol đề xướng và ấn bản đầu tiên trên Scandinavian Journal of Gastroenterology in 1997. Các dạng phân này khác nhau lệ thuộc vào thời gian mà chúng tồn lưu và lưu thông trong đại tràng.
7 loại phân được mô tả như sau:
·Type 1: phân cứng, dạng cục và rời rạc, giống các hạt đậu (khó đi ngoài);
·Type 2: dạng phân giống xúc xích nhưng nhiều dạng cục dính;
·Type 3: giống xúc xích nhưng có nhiều vết nứt trên bề mặt;
·Type 4:cũng giống xúc xích hoặc dạng con rắn, trơn và mềm;
·Type 5: dạng viên tròn mềm với các góc cạnh rõ (dễ đại tiện);
·Type 6: các mẫu phân nhuyễn mịn, đường rìa rách nhiều chỗ, phân mềm xốp;
·Type 7: dạng lỏng hoàn toàn
Loại 1 và 2 chỉ ra tình trạng táo bón, loại 3 và 4 là phân lý tưởng (ideal stools), dễ đại tiện và loại 5, 6,7 có xu hướng phân đi lỏng hoặc đi nhanh.
Các xét nghiệm về phân
Phân đôi khi ít người để ý đến vì nhiều lẽ, song tính chất và đặc điểm phân nếu được đánh giá một cách toàn diện và kèm với nhu động ruột có thể cung cấp cho các bác sĩ những thông tin có giá trị khi chẩn đoán và điều trị bệnh ở dạ dày, ruột non, đại tràng và toàn bộ hệ tiêu hóa. Bác sĩ có thể yêu cầu lấy mẫu phân để xét nghiệm, nhằm tìm hiểu:
-Dị ứng hoặc phản ứng viêm nào đang xảy ra trong cơ thể, như thế đánh giá dị ứngvới protein của sữa trên các trẻ em nhỏ;
-Nhiễm trùng một số loại vi khuẩn, virus hoặc ký sinh tùng ở hệ tiêu hóa;
-Các vấn đề liên quan đến hệ tiêu hóa như kém hấp thu một số loại đường, chất béo, vi chất dinh dưỡng;
-Chảy máu bên trong hệ tiêu hóa.
Lý do chính và thường gặp nhất để thu thập mẫu phân là xác định loại vi khuẩn hay ký sinh trùng có thể đang nhiễm trên đường tiêu hóa. Nhiều vi trùng sống trong đường ruột là cần thiết cho hệ tiêu hóa. Đôi khi ruột nhiễm các loại vi khuẩn hoặc ký sinh trùng gây bệnh trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, như một vài loại tiêu chảy có xuất huyết. Cần thiết có thể kiểm tra phân dưới kính hiển vi, cấy phân và thực hiện một số test khác để làm rõ nguyên nhân gây bệnh. Nhìn chung, kết quả xét nghiệm phân có thể trả lời ngay (test nhanh tìm máu trong phân) hoặc trong vài giờ (tìm ký sinh tùng) hoặc vài ngày đến vài tuần (nếu cấy phân tìm vi khuẩn hoặc virus)
Thu thập mẫu phân
Không giống như các phòng xét nghiệm khác, phân đôi khi được thu thập bởi người nhà trẻ em chứ không phải do nhan viên y tế lấy, nên có thể có một số sai sót và có thể ảnh hưởng lên kết quả xét nghiệm. Sau đây là một số mẹo để lấy mẫu phân từ bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em:
-Thu thập mẫu phân đôi khi bừa bãi và dơ bẩn, vì thế để đảm bảo thì nên sử dụng găng tăng cao su và rửa sạch tay của bạn và tay trẻ sau khi lấy;
-Nhiều trẻ tiêu chảy, đặc biệt là trẻ nhỏ, không phải luôn luôn để cha mẹ chúng biết được chuẩn bị đại tiện. Đôi khi nên sử dụng một túi nhựa chuyên lấy phân có nắp đậy để lấy phân là tốt nhất. Dụng cụ này có thể để trong toilets, cách này còn tránh vấy bẩn phân ra nguồn nước và lan khắp phòng. Nếu phân có nhiễm phải nước tiểu thì nên lấy thêm một mẫu phân khác để làm rõ và chẩn đoán gián biệt. Nếu bạn không thể lấy phân của trẻ trước khi chúng đi vào toilet thì cần lấy mẫu lặp lại chứ không nên lấy từ toilet;
-Một cách khác để lấy phân là sử dụng một loại áo choàng ngoài khi cho chúng đi toilet, khi đi chúng sẽ đi vào trong miếng vải choàng đó, và chúng ta cứ việc lấy mẫu phân đó cho vào lọ, ghi nhãn, niêm phong và gởi đến phòng xét nghiệm. Màng nhựa cũng có thể dùng dạng tả lót đêm cho em bé, rồi tuần tự lấy mẫu như trên;
-Phân nên lấy vào trong một túi nhựa sạch, khô và có khóa nắp, rồi sau đó gởi đến phòng xét nghiệm bệnh viện, phòng mạch bác sĩ, …Để cho có kết quả tốt nhất, mẫu phân nên đưa đến phòng xét nghiemj càng sớm càng tốt;
-Nếu không thể đưa mẫu phân đi ngay đến la bô, mẫu phân nên để lạnh, rồi sau đó chuyển đến la bô nuôi cấy càng sớm càng tốt. Khi mẫu đến la bô hoặc là xét nghiệm ngay hoặc là đưa đi cấy phân ngay, hoặc để trong một môi trường bảo quản để giữ cho sự sống của vi khuẩn và ký sinh trùng;
Sự biến đổi màu sắc phân
Màu sắc phân bình thường thì bilirrubine ở ruột bị hydrro hóa thành stercobilinogen màu vàng; chất này bi oxy hóa tiếp thành stercobilin màu nâu. Các phản ứng trên là do tác động của vi khuẩn ở ruột già. Trẻ sơ sinh, ruột già chưa có vi khuẩn nên phân vẫn giữ màu vàng của bilirubine và hơi xanh nếu bilirubine chuyển thành biliverdine do vi khuẩn.
-Màu vàng của phân có thể do nhiễm các tác nhân như Giardiasis, xuát phát từ góc từ Giardia, một dạng đơn bào rất nhỏ. Nếu nhiễm Giardia trong đường tiêu hóa, có thể gây ra tiêu chảy phân vàng nghiêm trọng. Đây là một bệnh nhiễm trùng nguy hiểm và phải có báo cáo. Một nguyên nhân khác gây nên tình trạng phân vàng là hội chứng Gilbert's. tình trạng này đặc trưng bởi vàng da và tăng bilirubine trong máu, xảy ra khi quá nhiều bilirubin hiện diện trong tuần hoàn máu.
-Phân có thể màu đen do có máu trong phân trong thời gian dài nằm trong đường ruột và bị tác động bởi enzyme hệ tiêu hóa. Đây được xem là melena, điển hình do chảy máu tiêu hóa trên do loét chẳng hạn. Thay đổi màu như thế (dù là vô hại) có thể nhìn thấy sau khi tiêu hóa các thức ăn chứa một tỷ lệ máu của thức ăn nguồn động vật như tiết canh hoặc huyết bánh. Màu đen gây ra do sự oxy hóa của sắt trong hemoglobin. Phân đen cũng óc thể do một số thuốc uống vào như bismuth subsalicylate và chế độ bổ sung chất sắt. Vì chất cam thảo (rể hay dây cam thảo) có hàm lượng sắt cao, nên cũng có thể gây ra phân có màu đen. Hematochezia có thể ra phân tạo màu cho phân là màu đỏ tươi do có mặt dưới dạng không tiêu trong hệ tiêu hóa;
-Phân chuyển màu xanh có thể do phân qua ruột già quá nhanh (bilirrubine chưa chuyển kịp thành stercobilirubine mà ra ngoài bị oxy hóa). Trên trẻ em khi mắc một số bệnh, phân có thể đổi màu sắc xanh da trời hoặc xanh lá cây. Ăn uống các thức ăn màu xanh hoặc rau xanh có thể đưa đến phân xanh. Khi tiêu hóa các thức ăn đặc trong thời gian đầu đời, các trẻ cũng có thể đi phân xanh và tồn tại không lâu sẽ hết. Điều này bởi vì xuất hiện các tế bào bị đào thải dần do quá trình phát triển của hệ tiêu hóa. Thức ăn với lượng lớn óc màu có thể sinh màu trong phân đi ngoài. Một ví dụ như FDA Blue # 5 báo cáo (thường tìm thấy trong các quả nho Kool-Aid), dẫn đến phân xanh lá cây khi nó phản ứng với mật trong đường ruột;
-Phân có thể màu trắng như phân cò do tắc mật, thiểu mật
Mùi của phân
-Mùi thối, và mùi tăng lên khi ăn nhiều thịt hoặc thiếu mật tiêu hóa thức ăn
-Phân tướt của trẻ sơ sinh thường có mùi chua
-Trong bệnh tiểu đường có thể có mùi ceton trong phân
Các giá trị thông số bình thường khác của phân:
Thành phần acide béo tự do khaongr 1-10% trọng lượng khô, bình thường phân mềm và tạo khuôn như hình ống, trong hội chứng kém hấp thu thì lượng mỡtrong phân > 95%; thành phàn nitow < 1.7g/ ngày; nước khaongr 65-75% trọng lượng, độ pH khoảng 7-7.5, nếu trẻ sơ sinh còn bú sữa mẹ thì pH của phân chuyển toan; thành phần protein rất ít (nếu thấy protein trong phân thì cần nghĩ đến thương tổn ở ruột, nhất là ruột già như viêm, lao, abces, ung thư,…); trọng lượng phân mỗi ngày khoảng < 65g/ ngày (khô) và < 195 g/ ngày (ướt).
Những tác nhân chính gây bệnh thường thấy trong phân
-Salmonella và Shigella
-Cryptosporidium
-Entamoeba histolytica
-Aeromonas
-Yersinia khi ủ trong điều kiện 30 °C (86 °F);
-Campylobacter ủ trong điều kiện 42 °C (108 °F), trong môi trường đặc biệt
-Candida nếu người bệnh suy giảm miễn dịch;
-E. coli O157 nếu máu có thể nhìn thấy trong phân;
Xét nghiệm phân tìm máu
-Xét nghiệm phân để tìm máu có hay không do một số bệnh tiêu chảy nhiễm trùng hoặc gây chảy máu đường tiêu hóa và một số bệnh lý khác. Tuy nhiên, hầu như chúng ta thấy dạng tia máu trên phân trẻ em bị nứt hậu môn do đại tiện bón thời gian dài, phân cứng,…Một số trường hợp khác có thể do ung thư, polyp đại tràng, ruột non,…cũng có thể gây chảy máu trong đường tiêu hóa, khi đó chúng ta có thể phát hiện máu ẩn trong phân hoặc lượng máu tươi chảy ra theo phân;
-Xét nghiệm máu trong phân thường thực hiện test nhanh và cho kết quả nhanh sau đó. Trước tiên, phân được làm tiêu bản trên một card bìa, ròi nhỏ vài giọt dung dịch để xem có máu trong phân hay không. Một sự thay đổi màu tức thì chứng tỏ có máu trong phân. Đôi khi phân được gởi đến các la bô để xét nghiệm tìm máu và kết quả có trong vài giờ.
Cấy phân
-Phân có thể cấy để tìm vi khuẩn gây bệnh. Trong một lần nuôi cấy, mẫu phân được đặt vào trongtủ ấm ít nhất 48-72 giờ và bất kỳ vi khuẩn nào muốn xác định và phân lập. Nhớ rằng không phải tất cả vi khuẩn trong phân đều gây bệnh. Thực tế, 80% mẫu phân có vi khuẩn và hầu hết chúng sống rất bình thường và rất quan trọng cho hệ tiêu hóa. Trong nuôi cấy phân, các kỹ thuật viên phòng xét nghiệm lại thường quan tâm đến loại vi khuẩn gây bệnh.
-Đối với cấy phân, phòng lab sẽ cần mẫu phân sạch hoặc để lạnh, mẫu phân tốt nhất là phân tươi, mới, lỏng, phân tạo khuôn tót hiếm khi dương tính với vi khuẩn. Đôi lúc, cần lấy nhiều hơn một mẫu để nuôi cấy;
-Các que lấy phân từ trực tràng của trẻ em cũng có thể xét nghiệm virus. Mặc dù quy trình này không làm thường xuyên, song đôi lúc cho bằng chứng trong một số trường hợp, đặc biệt trẻ sơ sinh và trẻ bênh nặng. Cấy virus có thể mất 1 tuần hoặc lâu hơn (tùy thuộc vào từng loại virus).
Xét nghiệm phân để tìm ký sinh trùng và trứng
-Phân có thể xét nghiệm để xem sự xuất hiện của ký sinh trùng và trứng hoặc ấu trùng nếu một trẻ tiêu chảy kéo dài hoặc có triệu chứng đường ruột khác. Đôi khi, bác sĩ sẽ lấy 2 hay nhiều mẫu phân mới có thể xác định được ký sinh trùng.
-Nếu ký sinh trùng hoặc trứng được phát hiện trên tiêu bản phân dưới kính hiển vi, trẻ sẽ được điều trị và điều đáng lưu ý là thu thập mẫu phân rồi phải bảo quản cũng như cất giữ để tìm ký sinh trùng rất quan trọng.
-Xét nghiệm phân trong sàng lọc bệnh ở cộng đồng hoặc trong một nhóm người nguy cơ có ý nghĩa kiểm soát, phát hiện và điều trị triệt để nguồn lây bệnh, tuy nhiên không chỉ dựa vào xét nghiệm phân đơn lẻ mà phải kết hợp nhiều biện pháp phân tích một mẫu phân, kèm theo xét nghiệm công thức máu chúng, đặc biệt đếm bạch cầu eosin tuyệt đối như sơ đồ dưới đây:
-Vì trứng và ký sinh trùng trong hệ tiêu hóa được đào thải ra hằng đợt và tùy thuộc vào nhiều yếu tố:
[1] nhu động ruột, đi phân theo thời gian;
[2] vật chủ chính hay vật chủ tình cờ vì liên quan đến hoàn thành chu kỳ thì mới có khả năng tống xuất trứng sán;
[3] thực hiện xét nghiệm một lần hay nhiều lần;
[4] nhiều kỹ thuật xét nghiệm hay chỉ một xét nghiệm trên mãu phân đó,…tất cả yếu tố trên phần nào cũng cho kết quả tối ưu hay không tôi ưu. Như xét nghiệm phân tìm trứng sán lá gan lớn là một ví dụ.
Do vậy, điều nên làm là nếu có thể chúng ta nên cùng lúc phối hợp nhiều phương pháp chẩn đoán khác nhau sẽ có giá trị và khắc phục các nhược điểm lẫn nhau.
Sự nhiễm bệnh do phân ở các nguồn nước
Một thử nghiệm nhanh tìm nhiễm bệnh phân trong nguồn nước hoặc trong đất là kiểm tra xem có mặt của vi khuẩn E. coli trên đĩa thạch MacConkey hoặc đĩa Petri. Vi khuẩn E. coli bacteria chỉ phát triển duy nhất trên dạng khóm khuẩn đỏ dưới điều kiện nhiệt độ 43 °C (109 °F) qua đêm. Trong khi hầu hết các dòng E. coli đều vô hại, sự xuất hiện của chúng chỉ ra nhiễm phân nặng và vì thế có khả năng nguy hiểm. Tỷ lệ nguồn nước nhiễm phân cao trên thế giới, điều đó giải thích tại sao nước không an toàn và nguồn nước sẵn có an toàn chỉ dành cho 1.1 tỷ người. Tại các quốc gia đang phát triển, hầu hết các cống thải nước ra mà chưa được xử lý trước đó. Ngay cả các quốc gia phát triển thì vấn đề vệ sinh và nguồn nước cũng có ô nhiễm thường thấy như sông Seine (Pháp) và sông Thames (Anh).