Lịch sử ra đời của thành phần hoạt chất β-agonist
Lịch sử trị liệu bằng hoạt chất beta-agonist trong thế kỷ này là một sự thành công từ các chất làm tăng tính năng đặc hiệu của các thụ thể ß2 chưa từng thấy. Mặt dù việc sử dụng thuốc Ephedrine – một chất có tính adrenergic đã từng sử dụng như một thuốc từ thảo dược ở Trung Quốc từ khoảng 3.000 năm trước công nguyên (3.000 BC), được biết đến như Epinephrine. Song, mãi đến năm 1903 thì Epinephrine được công nhận như thuốc beta-agonist được tổng hợp lần đầu tiên. Những cải tiến đáng kể sau đó đã làm tăng tính đặc hiệu đã tạo ra nhiều dẫn chất beta-agonist sau đó để điều trị bệnh hen phế quản, đặc biệt là Isoproterenol trong những năm 1940, Isoetharine năm 1951 và Metaproterenol năm 1961, nói chung đã mang lại và cải thiện chỉ số kết quả chữa khỏi bệnh đáng kể.
Một số ứng dụng của hoạt chất này trong lĩnh vực:
1. Trong y học:
Beta-agonists là thuốc có cơ chế tác dụng chính trên cơ quanh đường phế quản (phế quản và tiểu phế quản). Khi phổi bị kích thích, các nhóm cơ quanh các cơ quan hô hấp bị co thắt làm cho các đường hô hấp bị hẹp lại và điều này thường dẫn đến hiện tượng ngưng thở. Các thuốc beta-agonists có tác dụng làm cho các cơ hô hấp giãn ra, mở rộng đường hô hấp và kết quả là làm cho hoạt động thở dễ dàng hơn. β-agonist được phân làm hai nhóm theo đặc tính chữa bệnh như sau:
Nhóm β1-agonist:
Gồm các chất có tác dụng kích thích tim, được dùng để điều trị sốc tim, suy tim cấp tính như: dobutamine, isoproterenol, samoterol và epinephrine.
Nhóm β2-agonist:
Gồm các chất làm giãn cơ, được dùng để điều trị hen phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính như: Salbutanol (Albuterol), lenbuterol, fenoterol, formoterol, isoproterenol, salmeterol, terbutaline, fenoterol, metaproterenol, terbutaline, isoetarine, pirbuterol, procaterol, ritodrine, broxaterol, cinaterol, denopamine, etilefrine, isoxsuprine, mabuterol, oxyfedrine, prenalterol, ractopamine, rimiterol, tulobuterol, zilpaterol, zinterol.
Ngoài ra, các thuốc beta-agonist được chia thành hai loại theo thời gian tác dụng của chúng, tác dụng ngắn hay tác dụng lâu dài. Các beta-agonist được đưa vào bệnh nhân bằng nhiều đường nhưng phổ biến nhất là đường thở. Beta-agonists dạng viên, dạng con nhộng và dịch truyền thường được sử dụng hơn nhưng cũng có nhiều tác dụng phụ.
Thế nào là thuốc beta-agonist tác dụng ngắn và tác dụng kéo dài?
Các beta-agonists tác dụng ngắn có tác dụng chỉ sau thời 3-5 phút sử dụng, tuy nhiên chúng cũng có thể kéo dài 4-6 giờ. Các dạng thuốc này thường được sử dụng như thuốc giảm đau vì chúng có hiệu quả hạn chế ngưng thở rất nhanh. Chúng cũng có thể được dùng để phòng ngừa hoặc làm giảm các triệu chứng bệnh hô hấp trong một số trường hợp đặc biệt như tập thể dục, tắm hay đi ra ngoài dưới thời tiết lạnh. Các thuốc tác dụng ngắn thường được hít với một dụng cụ MDI, DPI hay ở dạng lỏng trong bình xịt. Một số thuốc beta-agonists cũng đóng gói dạng viên.
Các beta-agonists lâu dài tác dụng cần khoảng thời gian 12 giờ để phát huy hiệu quả và được xem là vẫn duy trì lượng thuốc trong cơ thể. Các thuốc thuộc nhóm này là các thuốc mới và hiện nay chỉ có 2 loại gồm: Formoterol (Oxis, Foradil) và Salmerterol (Serevent). Formoterol khác với Salmeterol ở chỗ Formoterol là thuốc trị hen phế quản có tác dụng nhanh và cũng có tác dụng kéo dài. Formoterol phát huy hiệu quả ngay sau khi hít (3 -5 phút) và kéo dài 4 - 6 giờ, còn dạng thuốc có tác dụng chậm sẽ phát huy sau 20 phút hít vào và kéo dài 12 giờ.
Ngược lại, Salmeterol chỉ có thành phần làm cho tác dụng chậm. Salmeterol bắt đầu tác dụng sau khoảng 20 phút và kéo dài 12 giờ. Thuốc có tác dụng trong 12 giờ là một tính năng quan trọng để cải thiện sự ổn định của đường hô hấp từng ngày. Một số người bị bệnh viêm phế quản tắc nghẽn mạn tính (COPD) sẽ ngủ tốt hơn vào buổi tối hay họ thấy rằng cần sử dụng thuốc giảm đau với tần suất ít hơn nhờ đặc tính này của thuốc.
Các beta-agonists tác dụng kéo dài nhanh trong vòng 3-5 phút, nhưng chỉ có thể kéo dài 4-6 giờ. Các dạng thuốc này thường cho như thuốc làm giảm nhẹ vì chúng làm giảm nhẹ đi tình trạng khó thở nhanh chóng. Chúng cũng có thể sử dụng để ngăn ngừa hoặc làm giảm triệu chứng mà từ lâu chúng ta biết chúng gây ra bởi các tình trạng đặc biệt như thế, như là sau khi tập luyện, tắm vào hay đi ra ngoài không khí lạnh về. Các thuốc tác dụng ngắn thường là đường hít được chế dưới dạng dung dịch hoặc MDI, DPI để trong một thiết bị phun sương (nebulizer device). Một số thuốc tác động ngắn loại beta-agonists cũng có thể sẵn có dạng viên nang.
Các beta-agonists tác dụng lâu dài có thời gian tác dụng khoảng 12 giờ và được xem là vẫn còn thuốc trong cơ thể. Các thuộc thuộc nhóm này là mới và vì thế mới chỉ có 2 loại hiện nay: Formoterol (biệt dược Oxis, Foradil) và salmerterol (biệt dược Serevent). Formoterol khác với Salmeterol ở chỗ Formoterol là thuốc trị hen có tác dụng nhanh và cũng có tác dụng lâu dài. Formoterol phát huy hiệu quả ngay sau khi hít (3 - 5 phút) và kéo dài 4 - 6 giờ, còn dạng thuốc có tác dụng chậm sẽ phát huy sau 20 phút hít vào và kéo dài 12 giờ. Ngược lại, Salmeterol chỉ có thành phần hoạt động chậm. Salmeterol bắt đầu tác dụng sau khoảng 20 phút và kéo dài 12 giờ. Thuốc có tác dụng trong 12 giờ là một tính năng quan trọng để cải thiện sự ổn định của đường hô hấp từng ngày. Một số người bị bệnh viêm phế quản mạn tính tắc nghẽn (COPD) sẽ ngủ tốt hơn vào buổi tối hay họ thấy rằng cần sử dụng thuốc giảm đau với tần suất ít hơn nhờ tính hiệu quả này.
Những vấn đề về tác dụng phụ mà chúng ta cần quan tâm đến thuốc beta-agonists?
Beta-agonists chủ yếu ảnh hưởng lên cơ và đường hô hấp. Chúng cũng có thể tác động lên cơ tim và các phần quanh xương. Khi các cơ tim bị ảnh hưởng, nhịp tim sẽ nhanh hơn và người bệnh hay có cảm giác đánh trống ngực và hồi hộp. Các thuốc này cũng có thể ảnh hưởng lên cơ xương (skeletal muscles), gây ra tình trạng vọp bẻ và rung cơ trên chân, tay và bàn chân. Thông thường nếu có phối hợp tăng nhịp tim và rung cơ xảy ra ở chân tay thì sẽ khiến cho bệnh nhân cảm giác lo lắng (nervousness) và khó thở trầm trọng.
Các tác dụng ngoại ý này có thể kéo dài vài phút và có thể mất đi sau khi dùng thuốc xong. Đôi khi tác dụng ngoại ý không mất đi và bạn có thể cần dừng thuốc và cố gắng tìm đến một biệt dược khác hay một loại thuốc khác. Thường thì các loại thuốc này có ảnh hưởng xảy ra như vậy vì quá nhiều thuốc bị phá vở bao ngoài viên thuốc khi dùng đường uống và nó hấp thu nhanh vào thay vì hít vào. Điều này có thể tránh được thông qua sử dụng một kỹ thuật tốt như gần đây người ta chế ra thuốc có các buồng hay khoang chứa (spacer/chamber device) và sẽ bị rửa ra sau khi sử dụng. Các tác dụng ngoại ý có thể cũng gặp khi uống thuốc nhiều hơn bạn dùng. Chẳng hạn, nhiều thuốc beta-agonists tác động ngắn không nên uống hơn mỗi 4 giờ, trừ khi có sự hướng dẫn của thầy thuốc. Các thuốc beta-agonists tác động kéo dài nhìn chung không được khuyên dùng hơn mỗi 12 giờ. Uống thuốc beta-agonists thường gây ra các tác dụng ngoại ý với sự cải thiện ít và đôi khi thở tệ hơn.
Với thuốc Salbutamol (dùng ở người), các chuyên gia khuyến cáo phải thận trọng khi dùng cho người đang có bệnh tim mạch nhưtăng huyết áp, bệnhtiểu đườngvà phụ nữ đang mang thai.Salbutamol có thể gây nhược cơ, làm giảm vận động của cơ, khớp, khiến cơ thể phát triển không bình thường.
2. Trong chăn nuôi
Chất tạo nạc là gì?
Chất tạo nạc cho heo tìm thấy ở Việt Nam thường là Salbutamol và Clenbuterol, có nguồn gốc từ nhóm beta-agonists. Beta-agonists là nhóm các hormone tự nhiên, có tác dụng làm giãn cơ cuống phổi, giãn cơ tử cung, đồng thời kích thích giải phóng insulin và quá trình phân giải glucose. Trong thú y, việc sử dụng beta-agonists chỉ được cho phép trong trường hợp của Clenbuterol dùng để trị bệnh viêm phế quản ở ngựa, bê và cho điều trị bệnh sản khoa ở bò cái.
Bên cạnh các tác dụng chính dùng trong Y học ở trên, Beta-agonists được chứng minh là chất chuyển đổi khá hiệu quả, làm giảm tỷ lệ mỡ, tăng tỷ lệ nạc ở gia súc, gia cầm. Do đó, lợi dụng đặc tính này nên một số người đã sử dụng Beta-agonists như chất bổ sung trong thức ăn để kích thích cho heo bung đùi, nở vai, tạo nạc chỉ trong thời gian rất ngắn để bán với giá cao hơn. Tuy nhiên Salbutamol, Clenbuterol là những chất được xếp vào danh mục 18 kháng sinh, hóa chất bị cấm sử dụng trong chăn nuôi ở Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành năm 2002.
Để đạt được mục đích, kích thích sinh trưởng, tạo thịt lợn siêu nạc người ta phải dùng β-agonist gấp 5-10 lần điều trị. Đây chính là lý do của việc sử dụng trái phép β-agonist trong thức ăn chăn nuôi (đặc biệt là chăn nuôi lợn) dẫn đến việc tồn dư các chất này trong sản phẩm động vật.
Mặt dù β-agonist là các chất hóa học được xếp vào loại chất độc cấm sử dụng trong chăn nuôi trên toànthế giới nhưng hiện nay người ta vẫn lén lút sử dụng. Vì lợi nhuận trước mắt, người chăn nuôi đã và đang gây nên những mối nguy hại khôn lường đối với sức khỏe cộng đồng và xã hội. Ví dụ, với loại lợn siêu nạc giống tốt nhất trong nước hiện nay, người dân phải mất 5 tháng mới đạt trọng lượng 95-100 kg/con nhưng cho thêm 1 thìa cà phê thần dược Beta-Agonist vào thức (cho 10 con lợn loại 70-80 kg/con), thời gian xuất chuồng rút ngắn chỉ còn ba tháng.
Một số β-agonist thường được sử dụng trong chăn nuôi và tác hại của chúng đến sức khỏe người sử dụng
Sabutamol
 |
Công thức cấu tạo của phân tử Sabutamol |
Sabutamol (Ibuterol) là một thụ thể agonist β2 tác dụng nhanh tạo Epinephrine, được sử dụng để làm giảm co thắt phế quản trong các bệnh như hen suyễn, bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. Sabutamol được bán lần đầu tiên trên thị trường vào năm 1968, bởi Allen và Hanburys dưới tên thương phẩm Ventolin. Thuốc này thành công nhanh chóng và được sử dụng để điều trị hen suyễn từ đó. Salbutamol sulfate thường được dùng qua đường hít có tác dụng trực tiếp đến cơ trơn phế quản. Salbutamol được sử dụng chủ yếu để điều trị co thắc khí quản cũng như bệnh tắc nghẽn phổi mãn tính. Ngoài ra, Salbutamol cũng được sử dụng trong sản khoa, Salbutamol dạng dịch truyền có thể được sử dụng như là thuốc đỡ đẻ, làm giản cơ mềm tử cung có tác dụng làm chậm sự đẻ non.
Salbutamol được hấp thụ dễ dàng qua đường tiêu hóa, là loại thuốc dùng cắt cơn hen, giãn phế quản, giãn cơ trơn.
Tác dụng phụ
Các tác dụng phụ thường thấy nhất là run, lo lắng, đâu đầu, rút cơ, khô họng và hồi hộp. Các triệu chứng phụ khác có thểcó mạch đập nhanh, rối loạn nhịp tim, thiếu máu cục bộ cơ tim và rối loạn giấc ngủ và hành vi. Còn Salbutamol dùng số lượng lớn gây hiện tượng tim đập nhanh, hệ thống thần kinh hưng phấn quá mức.
Clenbuterol
 |
Công thức cấu tạo của phân tử Clenbuterol |
Clenbuterol là chất độc, chất giúp tăng trọng gia súc, là loại chất kích thíchtuyến thượng thận, điều tiết sinh trưởng động vật, thúc đẩy quá trình phát triểncơ bắp, làm tăng lượngthịtnạc và đẩy nhanh việc phân giải mỡ, giảm tối đa lượng mỡ hình thành trong cơ thể, chỉ để lại một lớp rất mỏng. Những con lợn được trộn thức ăn có chứa Clenbuterol sẽ có tỷ lệ thịt nạc nhiều hơn thịt mỡ. Clenbuterol trộn vào thức ăn gia súc nhằm tạo ra vật nuôi siêu nạc, mau lớn. Clenbuterol có tác dụng đẩy nhanh quá trình đốt cháy mỡ, tăng cường phát triển cơ bắp nhưng dùng quá liều sẽ khiến cơ thể vật nuôi mang bệnh và có thể dẫn đến tử vong.
Thịt siêu nạc do hóa chất gây hại như thế nào?
Một kg “thần dược” có thể pha vào 1 tấn thức ăn gia súc. Vì một con heo tăng trọng 2 kg mỗi ngày, nên có thể ăn 6 kg thức ăn (tỷ lệ tăng trọng = 1:3), nghĩa là ăn phải 6g Clenbuterol. Vì liều điều trị cho một người (khoảng 50- 60 kg) không thể vượt quá 200 mcgs = 0,2 mg, nên lượng Clenbuterol cho phép trong con heo là: 2*0,2 = 0,4 mg.
Vậy lượng Clenbuterol mà heo ăn vào một ngày cao hơn lượng Clenbuterol cho phép là: 6000g/0,4 = 15.000 lần. Nếu heo được vỗ nạc trong 13 ngày (trước 15 ngày phải bán), thì dư lượng Clenbuterol cao so với lượng cho phép là:15.000 *13 = 195.000 lần. Quá khủng khiếp!
Việc ăn phải thịt lợn chứa chất Clenbuterol về lâu dài có thể gây biến chứng ung thư, ngộ độc cấp, run cơ, đau tim, tim đập nhanh, tăng huyết áp, choáng váng… Clenbuterol sẽ gây tổn hại cho hệ thần kinh, hệ tuần hoàn, thậm chí gây chết người. Đối với gia súc như lợn, con vật khi ăn phải chất này chỉ có thể tồn tại được quá nửa tháng là phải giết mổ.
Khi ăn phải thịt nhiễm Salbutamol, chất độc này hấp thụ dễ dàng qua đường tiêu hóa và lượng Salbutamol còn tồn dư trong thịt bao nhiêu thì cơ thể sẽ hấp thu bấy nhiêu. Salbutamol có thể gây nhược cơ, làm giảm vận động của cơ, khớp, khiến cơ thể phát triển không bình thường.
Nếu người tiêu dùng ăn thịt heo có tồn dư hai chất cấm Salbutamol và Clenbuterol lâu dần sẽ có nguy cơ bị ảnh hưởng xấu lên tim mạch, làm cho tim đập nhanh, tăng huyết áp, run cơ, rối loạn tiêu hóa nếu nặng có thể nguy hiểm đến tính mạng và có thể là nguy cơ cho những căn bệnh khác. Ăn loại thịt heo này, phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh ung thư vú; đàn ông u nang tinh hoàn, dãn tĩnh mạch dịch hoàn, chất lượng tinh dịch thấp, thay đổi hành vi tình dục…
Những vụ buôn bán, ngộ độc chất cấm trong chăn nuôi gần đây.
- Từ những năm của thập niên 80, Mỹ đã cấm sử dụng Clenbuterol vào thức ăn gia súc. Vào năm 1990, Trung Quốc cũng đã cấm sử dụng Clenbuterol trong chăn nuôi gia súc và nhiều nước trên thế giới cũng đã cấm sử dụng các hooc mon sinh trưởng trong chăn nuôi gia súc. Tuy nhiên ở đâu đó trên trái đất, ngườichăn nuôi vẫn len lút sử dụng các chất cấm trong chăn nuôi vì lơi nhuận trước mắt của mình.
- Tháng 2/2009, trên 70 người ở Quảng Đông bị ngộ độc khi ăn lòng heo có dư lượng Clenbuterol.
- Tháng 3/2011, Bộ Nông nghiệp Trung Quốc mở đầu một chiến dịch kéo dài 1 năm để truy quét thức ăn chăn nuôi có chứa Clenbuterol, sau khi một công ty con của tập đoàn Shuanghui (sản xuất thịt lớn nhất TQ) bị phát hiện Clenbuterol trong thịt heo của công ty. Tổng cộng có 72 người bị bắt và bị cảnh sát giam giữ vì bị cáo buộc sản xuất, bán hoặc sử dụng thịt heo nhiễm Clenbuterol.
- Ngày 25/7/2011, Trung Quốc xét xử những người sản xuất Clebuterol làm thực phẩm chăn nuôi heo siêu thịt. Kẻ chủ mưu Lưu Tương phải chịu mức án tử hình, đồng phạm Hề Trung Kiệt bị kết án chung thân, các bị cáo còn lại lãnh án từ 9-15 năm tù giam.
Hiện nay, ở Việt Nam tình hình sử dụng chất cấm diễn ra không kém phức tạp, người ta buôn bán sử dụng một cách âm ĩ, rất khó kiểm soát và hậu quả của việc này đến sức khỏe con người về trước mắt cũng như lâu dài là rất đáng lo ngại.
Ở Đồng Nai, ngày 12/3/2011, Đội Quản lý thị trường cơ động (thuộc Chi cục Quản lý thị trường Đồng Nai) kiểm tra đột xuất Công ty TNHH Nhân Lộc, tại xã Bình Lợi, huyện Vĩnh Cửu (Đồng Nai) và phát hiện gần 2,5 tấn chất tăng trưởng và tạo nạc trong chăn nuôi lợn. Lượng hàng này được chứa 110 bao nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, loại có trọng lượng 20kg, có nhãn mác HT04, HT02, ghi công dụng tạo nạc, tạo màu nạc đỏ, giảm mỡ lưng, tăng tiết hormone tăng trưởng, cải thiện tăng trọng, giảm tiêu tốn thức ăn cho lợn.
Trước đó, ngày 10-3, Quản lý thị trường Đồng Nai kiểm tra phát hiện Cty TNHH và Dịch vụ nông nghiệp Thiên Hưng Phát (tại xã Thanh Bình, huyện Trảng Bom) có 220kg chất tạo nạc Super weight 02 và Bcomles-C, ghi công dụng giúp heo bung đùi, tạo nạc, kích thích thèm ăn.
| |
Các bao chất tạo nạc Super Weight 02 được phát hiện tại Đồng Nai ngày 10/3/2011 | Chất tạo nạc được trộn vào thức ăn gia súc |
Thông tin từ sở NN&PTNT TP Hà Nội đã phát hiện 8 mẫu thịt dương tính với chất tạo nạc (gốc Beta- Agonits) trong 227 mẫu gồm thức ăn chăn nuôi, thịt lợn được kiểm nghiệm. Trước đó, đầu tháng 4/2012 Sở NN và PTNT TP HN cũng từng phát hiện 3 mẫu dương tính với chất cấm thuộc nhóm Beta agonists gồm: 2 mẫu thức ăn bổ sung ở Hòa Bình và Hải Dương và một mẫu gan lợn ở Bắc Ninh.
Ngày 11/4, đoàn kiểm tra liên ngành của Bộ NN&PTNT đã niêm phong 7,5 tấn bột nghi là chất tạo nạc dùng trong chăn nuôi tại huyện Mỹ Hào, Hưng Yên.
Ông Nguyễn Trí Công, Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai, thừa nhận người nuôi heo có dùng hóa chất để tạo nạc như bài báo thông tin. Việc xử lý rất khó khăn vì người bán sử dụng lén lút như ma túy. Mặc dù khẳng định: “Hiệp hội biết rõ người bán, chính thương lái giao loại thuốc đó cho người nuôi heo sử dụng để họ bán lại heo cho mình...”, nhưng ông Công cho rằng mức xử phạt đối với hành vi làm ăn gian dối này quá thấp nên chưa đủ sức răn đe.
Vậy có cách nào để nhân biết thịt nào có chất tạo nạc và thịt nào không?
Theo ông Nguyễn Xuân Dương, Phó cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), nếu nhìn bằng mắt thường thì rất khó phân biệt thịt lợn được nuôi bằng thức ăn tạo nạc và thịt nạc bình thường. Để biết thịt lợn nào bị nhiễm chất tạo nạc thì phải lấy mẫu thịt để kiểm tra, phân tích mới có thể đưa ra kết luận chắc chắn. Tuy nhiên, người dân nên tránh những loại thịt lợn phần nạc có màu đỏ giống thịt bò.
Sau đây là 4 đặc điểm nhận biết thịt siêu nạc có hóa chất theo các chuyên gia Cục chăn nuôi:
1.Xem lớp mỡ bên dưới da miếng thịt, nếu lớp mỡ mỏng và lỏng lẻo nên tránh. Thông thường lợn siêu nạc được ăn hóa chất nên lớp mỡ mỏng hẳn đi, có khi dày đến 1 cm (khoảng 0,4 cm), trong khi lớp mỡ của thịt lợn bình thường khoảng 1,5-2 cm
2.Nhìn màu sắc: Thịt lợn chứa các chất độc Ractophamine và Clenbuterol thường có màu đỏ tười khác thường, sáng và bóng.
3.Thái miếng thịt ra dày bằng 2-3 ngón tay, nếu thấy thịt mềm, không đứng thẳng được trên bàn thì rất có thể thịt đã nhiễm chất tăng trọng.
4.Quan sát xem chỗ liên kết giữa phần nạc và mỡ, nếu thấy tách rời rõ rệt, đồng thời có nước dịch màu vàng rỉ ra, chắc chắn đó là thịt siêu nạc
| | |
Thịt lợn có chứa các độc chất Ractopamine và Clenbuterol thường có màu đỏ tươi khác thường, sáng và bóng, thịt khá nhũn, chảy dịch vàng, có mùi, có độ đàn hồi kém | Trong khi đó thịt heo siêu nạc không sử dụng hóa chất thường có màu hồng tươi tự nhiên, thịt có cả mỡ lẫn nạc, mỡ màu trắng và kết dính cả khối thịt rất rắn chắc. Dùng tay ấn vào sẽ thấy thịt có độ đàn hồi cao, không có nhớt |
Những giải pháp cần thực hiện để bảo vệ người chăn nuôi cũng như người tiêu dùng?
- Thông tin tuyên truyền rộng rãi, sâu rộng đến người chăn nuôi, các cơ sở sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y. Vận động mọi người nói không với các chất cấm sử dụng trong chăn nuôi.
- Chính quyền, cơ quan chức năng phải vào cuộc để kiểm tra xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
- Cần phải lấy mẫu xét nghiệm để có cơ sở khoa học nhằm giải quyết các trường hợp vi phạm đồng thời tạo sự an tâm, tin tưởng trong người chăn nuôi, người tiêu dùng khi sử dụng thuốc, thức ăn trong hoạt động chăn nuôi hoặc khi sử dụng.
- Phổ biến các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi như: giống, kỹ thuật lai giống, kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học để người chăn nuôi áp dụng có hiệu quả thay vì sử dụng các chất cấm.
- Kiến nghị: Bộ Nông nghiệp phải có biện pháp quyết liệt để dập tắt hiểm họa chất tạo siêu nạc Clenbuterol và Salbutamol này. Các nhà làm luật nên khẩn trương đưa ra hình phạt thật nặng đối với tội ác này. Một số quốc gia trong Liên minh châu Âu xử đến 14 năm tù giam cho tội danh này.