Dị ứng và chất histamine
Histamine là chất sinh học có trong cơ thể ta, bình thường không gây rối laọn mà gópp hần điều hòa hoạt động sinh ký của cả cơ thể. Histamine có thể đuwjc đưa từ bên ngoài vào trong cơ thể (hiếm) mà đa số là histamine được sinh ra trong cơ cơ thể, gọi là histamin nội sinh. Histamin nội sinh được thành lập từ phản ứng khử carboxyl của một acide amin là L-histidine. Do nhu cầu và ăn uống hàng ngày của chúng ta có chất đạm, tức là thường xuyên cung cấp các acide amin nên thường xuyên histamine sinh ra trong cơ thể nhưng khong gây độc vì hầu hết chúng không ở dạng tự do mà kết hợp với một số chất khác, chủ yếu là heparine và được lưu giữ lại trong các hạt chứa trong các tế bào bạch cầu như các dưỡng bào (mast cell hay mastocyte), các té bào mast này có nhiều ở mô, đặc biệt ở hệ hô hấp và tế bào đa nhânưa kiềm (basophile có nhiều trong máu). Trong cơ thể chúng ta luôn luôn xảy ra các phản ứng kháng nguyên-kháng thể, hay nói cách khác là cơ thể chúng ta luôn luôn bị các chất lạ tấn công hay bản thân chúng ta phơi nhiễm hoặc tiếp xúc với chúng, từ đó, cơ thể chúng ta thường xuyên tạo ra các chất chống lại các chất đó-gọi là kháng thể.
Histamine hiện diện ở tất cả các mô nhưng tập trung nhiều nhất ở da, phổi, gan và được tìm thấy chủ yếu trong các mastocytes là các tế bào mà tế bào chất chứa rất nhiều hạt basophile. Histamine cũng có thể hiện diện ở não, đặc biệt trong vùng dưới đồi. Sự quay vòng của histamine chậm, sau khi được bài tiết, nồng độ histamine chỉ có thể trở về mức ban đầu sau nhiều tuần. Ở các tế bào thần kinh và dạ dày, sự tái tạo histamine rất nhanh vì histamine được phóng thích liên tục. Ở ngoại biên, các tế bào như basophiles và mastocytes có thể phóng thích rất nhiều histamine qua các phản ứng kháng nguyên - kháng thể dưới ảnh hưởng của các loại thuốc hay độc chất. Ở hệ thần kinh trung ương, việc điều hòa sự phóng thích histamine ở nơi tiếp hợp cuả các tế bào chưa được biết rõ nhưng người ta biết rằng hoạt động của các thụ thể H3 trước nơi tiếp hợp có thể ngăn chặn sự phóng thích histamine.
Kháng nguyên có nhiều loại, có thể là thức ăn, thức uống, thuốc, hóa chất, phấn hoa, lông chó mèo, bụi bẩn, vi khuẩn, nấm mốc,...còn kháng thể là các chất do tế bào bạch cầu sinh ra có tên là immunoglobuline (Ig) với nhiều loại khác nhau IgG, IgA, IgM, IgE,...sẽ gắn vào kháng nguyên, tìm cách vô hiệu hóa kháng nguyên-đó chính là phản ứng trung hòa kháng nguyên-kháng thể.
Với một số người gọi là cơ địa nhạy cảm dễ bị dị ứng, phản ứng kháng nguyên-kháng thể dễ xảy ra và cường độ phản ứng mạnh hơn nên dễ đưa đến rối loạn. Sự rối laọn thể hiện là kháng nguyên phản ứng với kháng thể, đặc biệt với IgE (đã gắn sẵn trên màng tế bào mast và bạch cầu ái kiềm) sẽ làm cho màng các tế bào bạch cầu này vỡ ra và các hạt chứa chất heparine kết hợp với histamine được phóng thích ra bên ngoài, histamine ở trạng thái tự do được giải phóng và gắn kết với các thụ thể H1, H2, H3 để dẫn đến các hiệu ứng, trong đó có tình trạng dị ứng.
Hiện tượng tế bào mast bị vỡ màng phóng thích các hạt chứa histamine ra ngoài gọi là tế bào giải hạt (mast cell degranulation) không chỉ do phản ứng kháng nguyên-kháng thể mà có thể do các yếu tố khác khởi phát như: nhiệt độ (nóng hoặc lạnh), ánh nắng, tiếp xúc với hóa chất. Về biến dưỡng thì một phần histamine tự do gắn kết với các globuline trong huyết tương, phần khác chịu sự bất hoạt bởi các biến đổi hoá học như khử amine oxy hoá của enzyme diamine oxydase, N-methylation dưới ảnh hưởng cuả enzyme N-methyl transferase.
Cơ chế hoạt động của histamin
Các đặc tính dược lý của histamine đã được tìm hiểu từ năm 1910 và chất kháng Histamine đã được sản xuất từ những năm 1940s.
-Như trên đã đề cập, khi cơ thể con người bị dị ứng với các tác nhân như gồm thuốc, hóa chất, yếu tố môi trường mà cơ thể tiếp xúc sẽ giải phóng ra histamin. Trong cơ thể, histamin có sẵn trong các mô da, phổi, niêm mạc miệng, dạ dày. Một số vi khuẩn khi bị nhiễm vào đường ruột gây bệnh nguy hiểm cũng có thể tạo ra histamin.
-Ở trạng thái bình thường, các tế bào chứa sẵn histamin nhưng không có hoạt tính vì nó đang ở dạng phức hợp với protein. Khi cơ thể bị dị ứng, mẫn cảm với thuốc, hóa chất hay các tác nhân ngoại cảnh khác, các chất kháng nguyên tác động lên phức hợp protein này và giải phóng ra histamin, gây ra những phản ứng dị ứng từ trầm trọng như: sốc phản vệ cho đến các trạng thái dị ứng khác như: phát ban, đỏ da, phù nề, khó thở, ngứa, ho, buồn nôn... Khi đó, chúng ta phải sử dụng các thuốc kháng histamin để điều trị.
-Các thuốc kháng histamin H1 là những thuốc có tác dụng tốt trong các phản ứng dị ứng cấp tính, với các triệu chứng như: sổ mũi, nổi ban đỏ, viêm mô liên kết, viêm mao mạch dị ứng, viêm da... Nhóm thuốc này có khá nhiều hoạt chất, thường được phân loại theo thế hệ hoặc theo cấu trúc hóa học.
Từ những phương cách kháng lại tác động của histamine đến thuốc anti-histamine
Từ khi biết được vai trò của histamine trong dị ứng, người ta tác động chống lại nó bằng một số phương cách sau:
  !important; -Sửa chữa tác động bằng thuốc cho hiệu ứng ngược lại (ví dụ điều trị hạ huyết áp bằng thuốc adrenaline tăng huyết áp);
  !important; -Phân hủy histamine bằng enzyme histaminase, phương cách này dùng từ rất lâu;
  !important; -Ngăn chặn sự thành lập histamine (tritoqualine, tác động bằng cách ức chế sự khử carboxyl không cho histidine biến thành histamine);
  !important; -Ổn định màng tế bào bạch cầu, ngăn chặn giải hạt không cho histamine dạng tự do được phóng thích ra ngoài tế bào, gồm có: natri cromoglycat (biệt dược Lomudal), ketotifen (biệt dược Zatidène) tác động lên tế bào mast ức chế sự phóng thích histamine nên dùng phòng bệnh hen phế quản;
  !important; -Đối kháng tương tranh tại thụ thể H1 (đây chính là tác động của thuốc kháng histamine). Kháng histamin là loại thuốc ngăn chặn những tác động của histamin, một loại tế bào đặc biệt được gọi là những thụ thể (receptor) của histamin phân bố trên các mô của cơ thể. Khi histamin được phóng thích vào máu, nó liên kết với những thụ thể này khiến dãn mạch máu gây tăng lượng máu đến những khu vực có các thụ thể trên, như mũi, làm cho nó bị phù nề, tăng tiết chất nhầy, gây ngứa và những triệu chứng khác. Kháng histamin hoạt động bằng cách ngăn chặn không cho histamin gắn vào những thụ thể trên. Điều này ngăn không cho các mạch máu dãn ra và do đó ngăn chặn những triệu chứng dị ứng. Kháng histamine cũng đi vào máu và theo máu đến não. Tùy thuộc vào loại thuốc, nó có thể gây tác dụng lên não tạo ra những hiệu ứng khác như buồn ngủ và ngăn chặn phản xạ nôn hoặc ho;
  !important; -Có 2 loại thụ thể histamin chính. Thụ thể H1 được tìm thấy chủ yếu ở các mạch máu nhỏ trên da, mũi và mắt. Kháng histamin chặn thụ thể H1 dùng để điều trị dị ứng, chẳng hạn như sốt cỏ khô, có thể gây ra những triệu chứng như ngứa ngáy, hắt xì và chảy nước mắt. Thụ thể H2 được tìm thấy chủ yếu ở niêm mạc dạ dày. Khi histamin gắn kết vào thụ thể H2, nó sẽ phóng thích acid vào dạ dày. Kháng histamin có tác dụng trên thụ thể H2 và do đó nó có thể dùng để điều trị loét dạ dày. Nó ngăn chặn sự hình thành acid và giúp cho niêm mạc bảo vệ dạ dày có thời gian để tự làm lành vết thương.
CÁC LOẠI THUỐC KHÁNG HISTAMINE
Thuốc kháng histamine là một loại thuốc dùng để ngăn chặn tác dụng của một chất có trong máu có tên là histamin. Hoạt động chính của histamin liên quan đến miễn dịch. Nó được chế tiết ra khi cơ thể tiếp xúc với các dị nguyên. Các dị nguyên là những chất mà lúc bình thường không gây hại, chẳng hạn như phấn hoa, nhưng nó có thể gây ra các phản ứng quá mẫn hệ miễn dịch ở một số người. Histamin cũng có các tác dụng khác ở khắp cơ thể, chẳng hạn như làm co và dãn các mạch máu và co cơ à kháng histamin ngăn chặn histamin thực hiện những phản ứng trên. Chúng thường được dùng để điều trị các phản ứng dị ứng, một số loại còn được dùng để điều trị nhức đầu migraine, ...Kháng histamin có dạng thuốc viên, kem thoa, dạng tiêm. Những thuốc kháng histamine loại cũ có khuynh hướng gây ra tình trạng lơ mơ, uể oải và hiếm khi gây ra một số loạn nhịp nguy hiểm (terfenadine và astemizole). Với những tiến bộ gần đây, những loại kháng histamin mới ít gây buồn ngủ hơn.Tác dụng của loại kháng histamin mới không gây buồn ngủ cũng có khuynh hướng kéo dài hơn, do đó không cần phải sử dụng chúng thường xuyên.
4 loại thụ thể của histamine và 3 thế hệ thuốc kháng histamine
- Thụ thể H1: thụ thể này được tìm ra năm 1966, là nơi histamine gắn vào gây hiệu ứng có thắt cơ trơn của phế quản, ruột nhưng làm dãn cơ trơn mạch máu (nếu dãn mạch trầm trọng sẽ gây sốc phản vệ), tăng tính thấm mao mạch gây phù nề, kích thích tận cùng mút dây thần kinh gây ngứa (chất chủ vận là 2-methyl histamine); riêng với thụ thể H1, khi histamin gắn vào sẽ gây các biểu hiện dị ứng như sau:
-Trên hô hấp: sổ mũi, hen suyễn (có thể co thắt khí quản);
-Trên hệ tim mạch: gây dãn mạch, hạ huyết áp (triệu chứng này rất trầm trọng trong sốc phản vệ), tăng co thắt cơ tim;
-Trên da: nổi mề đay, phát ban, ngứa, phù Quincke;
-Trên mắt: làm viêm đỏ kết mạc mắt;
-Trên hệ tiêu hóa: tăng co thắt cơ trơn của ruột gây tiêu chảy.
·Thụ thể H2: được tìm ra năm 1972 nằm trên màng tế bào viền ở niêm mạc dạ dày khi histamine gắn vào sẽ làm cho tế bào viền tiết ra HCl (chất chủ vận là 4-methyl histamine);
·Thụ thể H3: phát hiện ra năm 1983, hiện diện ở một số nơi trên hệ thần kinh trung ương với nhiệm vụ điều hòa sự tổng hợp và phóng thích histamine, chất kháng thụ thể H3 là thioperamide vẫn còn đang nghiên cứu, chưa dùng trong điều trị (chất chủ vận của thụ thể H3 là (R)-a-methyl histamine);
·Thụ thể H4: loại thụ thể này gần đây được phát hiện trên các tế bào có liên kết tạo máu như dendritic cells, mast cells, eosinophils, basophils, T cells, NK cells. Một số ligand đã được xác định có tính thu hút với các receptor này. Sự điều hòa có thể ảnh hưởng lên quá trình tiếp nhận, viêm nhiễm và ngứa.
Hiện nay thuốc kháng histamine (anti-histamine) được chia làm 3 thế hệ :
·Thế hệ 1: là các kháng histamine cổ điển, ra đời đầu tiên năm 1939 cho đến những thuốc cuối năm 1970 như các thuốc chlopheniramine, dexchlorpheniramine...Nhược điểm của thế hệ 1 này là gây tình trạng buồn ngủ, lơ mơ, uể oải, mệt mỏi, thời gian thuốc tác dụng ngắn, nên người dùng phải uống nhiều lần trong ngày, có thể dùng 1-2 lần/ ngày hoặc 4lần/ ngày;
·Thế hệ 2: ra đời vào năm 1980, hiện tại nhóm này đang được sử dụng khá phổ biến ở Việt Nam như certirizine, loratidine, mequizine, terfenadine, astemizole, fexofenadine. Thuốc thế hệ 2 khắc phục được nhược điểm của thế hệ 1 nhờ cấu trúc không thấm mỡ, không xâm nhập hệ thần kinh trung ương nên không gây buồn ngủ và không tác dụng phụ liệt đối giao cảm, thuốc thế hệ 2 không gây tác dụng phụ như táo bón, khô miệng, rối lọan điều tiết mắt. Một ưu điểm nữa của thế hệ thứ 2 là thời gian bán hủy dài nên chỉ cần uống một lần trong ngày (xem hình); Tuy nhiên, sau thời gian sử dụng có 2 loại thuốc thế hệ 2 này (terfenadine và Astemizole) bị rút khỏi thị trường ở nhiều quốc gia do có gây rối lọan nhịp tim tâm thất, có thể dẫn đến tử vong, đặc biệt là khi phối hợp với kháng sinh nhóm macrolide thì triệu chứng nặng hơn;
·Thế hệ 3 : là những đồng dạng hoặc đồng phân của thế hệ thứ 2, hoặc là các chất chuyển hóa (sản phẩm chuyển hóa trong cơ thể), chẳng hạn desloratadine (Aerius) là chất đồng phân Loratadine, fexofenadine (Telfast) là chất đồng phân terfenadine, levocertirizine (Xyzal) là chất đồng phân tả truyền của certirizine, tecasmizol (Soltara) chát chuyển hóa của astemizol. Vì là chất đồng phân của thế hệ thứ 2 nên ngoài những ưu điểm trên, thuốc thế hệ thứ 3 còn có ưu điểm quan trọng là không gây biến chứng trên tim mạch. Nhờ ưu điểm này nên thế hệ thứ 3 sẽ dần dần thay thế hoàn toàn nhóm thuốc kháng histamine thế hệ 2 và thế hệ thứ 3 còn có tác dụng chóng viêm nên có tác dụng điều trị viêm mũi dị ứng khá tốt.
Trong thực tiễn điều trị, khi chọn thuốc thuộc một nhóm không đạt hiệu quả trên người bệnh, người ta có xu hướng chọn thuốc thuộc nhóm khác với hy vọng có sự khác nhau về cấu trúc hóa học sẽ đưa đến hiệu quả hơn trong điều trị hoặc giảm tác dụng phụ mà một thuốc gây nên.
Giới thiệu một số loại kháng histamin
Dưới đây là danh sách một số loại thuốc kháng histamin đang được sử dụng, nếu thuốc bạn đang sử dụng không được liệt kê ở đây, hãy liên hệ với bác sĩ hoặc dược sĩ để được cung cấp thông tin đầy đủ nhất:
·Alimemazine tartrate
·Alomide
·Azelastine hydrochloride
·Chlorphenamine maleate
·Desloratadine
·Emadine
·Emedastine difumarate
·Epinastine hydrochloride
·Fexofenadine hydrochloride
·Levocetirizine dihydrochloride
·Lodoxamide trometamol
·Mizolastine
·Mizollen
·Neoclarityn
·Olopatadine hydrochloride
·Opatanol
·Optilast
·Phenergan
·Piriton
·Promethazine hydrochloride
·Relestat
·Rhinolast
·Telfast
·Vallergan
Một số thuốc kháng histamin H1 thường dùng
Các thuốc kháng histamin H1 được sử dụng trong điều trị rất đa dạng. Nó làm giảm các trạng thái phát ban, mề đay, dị ứng mũi, làm dịu các triệu chứng ngứa, buồn nôn và nôn. Nó rất hay được sử dụng phối hợp trong điều trị các triệu chứng cảm, ho, sốt hoặc dị ứng với thời tiết như: viêm mũi dị ứng, chảy nước mũi, hắt hơi, viêm kết mạc mắt, côn trùng đốt. Một số thuốc được dùng làm thuốc chống say tàu xe do có tác dụng ức chế thần kinh trung ương, an thần nhẹ, làm giảm các rối loạn tiền đình, chóng mặt và buồn nôn.
-Các ethanolamin: với nhiều dẫn chất như: carbinoxamin, clemastin, dimenhydrynat, diphenhydramin... có tác dụng làm dịu và tác dụng kháng cảm cholin. Trên thị trường hiện nay có một số thuốc chống say tàu xe như vomina, nautamin được nhiều người hay sử dụng, cần lưu ý là nó có tác dụng an thần gây ngủ nên phải sử dùng đúng liều để tránh những tác dụng phụ nguy hiểm. Dạng thuốc dimedrol ống tiêm 10mg/1ml thường chỉ sử dụng trong bệnh viện. Thuốc nhỏ mắt daiticol có phối hợp với kẽm sulfat cần đọc kỹ trước khi sử dụng và thận trọng với những người có cơ địa quá mẫn.
-Các ethylendiamin: là các chất đối kháng chọn lọc của thụ thể H1. Hay dùng các thuốc tổng hợp như: pyrilamin và tripelennamin. Thuốc này có tác dụng an thần và gây tê tại chỗ, được sử dụng để điều trị nhiều loại dị ứng thức ăn hoặc dị ứng thuốc, ezecma, phản ứng sau khi tiêm huyết thanh. Cũng như tất cả các thuốc kháng histamin H1 khác, thuốc này gây buồn ngủ, tránh dùng khi vận hành máy móc, làm việc trên cao, lái tàu xe. Tuyệt đối không uống rượu khi dùng thuốc.
-Các piperazin: có tác dụng làm dịu và chống nôn như: cyclizin, meclozin, hydroxyzin, cetirizin. Tuy nhiên, chúng lại không có tác dụng an thần và chống tiết cholin. Thường được dùng để điều trị dị ứng hô hấp, viêm mũi dị ứng dai dẳng mạn tính hoặc theo mùa, các bệnh ngoài da ngứa hoặc mề đay mạn tính.
-Các alkylamin: với tác dụng chống dị ứng nhẹ rất hay được sử dụng như: rompheniramin, chlopheniramin. Hoạt chất có thể được sử dụng riêng rẽ hoặc phối hợp với các chất giảm đau, hạ sốt, chống viêm khác. Trên thị trường có các biệt dược phối hợp của chlopheniramin với paracetamol thường rất hay sử dụng để trị cảm cúm, ho, đau họng... Cần lưu ý không được dùng cho người có tiền sử bị bệnh tim mạch, cao huyết áp. Hiện nay, có thế hệ mới là acrivastin dạng viên nang 8mg dùng để điều trị viêm mũi dị ứng, mề đay mạn tính, ngứa, mẫn đỏ… Chú ý không dùng thuốc này cho phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú.
-Các phenothiazin: mà điển hình là promethazin có tác dụng làm dịu rõ rệt và chống nôn, kháng tiết cholin mạnh. Đây là thuốc kháng histamin tổng hợp mạnh nhất hiện nay. Nó còn có tác dụng gây ngủ, giảm đau, an thần, giảm lo âu và chống nôn. Chú ý dạng thuốc tiêm có chứa chất sulfit nên có thể gây sốc phản vệ. Không được tiêm dưới da và tuyệt đối không dùng cho trẻ em dưới 2 tuổi vì có thể gây ngừng thở đột ngột. Hoạt chất này có khá nhiều dạng thuốc như kem bôi da 2%, si-rô uống 0,1%, ống tiêm 50mg/2ml hoặc viên nén uống 25mg. Promethazin còn có nhiều tên khác như: pipolphen hoặc phenergan.
-Các piperidin: dẫn đầu là cyproheptadine (Periactine, Peritol), Terfenadine (Teldane) có tác dụng làm dịu ở mức trung bình và có tác dụng chọn lọc cao với các thụ thể H1, hiện nay rất hay được sử dụng như astemizon, levocabastin, loratadin, azatadin, cycloheptadin, terfenadin. Đây là nhóm thuốc kháng histamin H1 có rất nhiều tên biệt dược, được sử dụng trong nhiều bệnh dị ứng khác nhau. Chú ý các dạng thuốc kháng histamin nàycó tác dụng nhanh và kéo dài nên mỗi ngày chỉ dùng 1 lần.
Tất cả các thuốc kháng histamin H1 đều có nhiều tác dụng phụ nên phải dùng đúng quy định về liều lượng và thời gian dùng thuốc. Chú ý các đối tượng dùng thuốc, đặc biệt như: trẻ em, phụ nữ có thai, cho con bú, người cao tuổi. Nhóm thuốc này có nhiều biệt dược, được người sử dụng mua trước khi đi du lịch (như say tàu xe hoặc dị ứng với thời tiết, thức ăn, cảm sốt...). Phải để xa tầm tay của trẻ em, nếu không dùng hết vỉ thuốc thì loại bỏ. Không tự ý sử dụng thuốc nếu không thật cần thiết.
Công dụng của các thuốc kháng histamine H1
-Kháng histamin được dùng nhiều nhất trong việc điều trị những triệu chứng dị ứng, đặc biệt là sốt cỏ khô, và những phản ứng do bị cắn hay bị đốt. Khi được uống dưới dạng viên đối với sốt cỏ khô hay những dạng dị ứng khác, kháng histamin có thể giảm ngứa ở mũi và mắt, giảm chảy nước mũi, nước mắt và hắt xì. Nó không có hiệu quả tốt cho lắm trong điều trị nghẹt mũi nhưng nó có thể phối hợp với một loại thuốc thông mũi (loại thuốc làm giảm phù nề niêm mạc và ngăn sản xuất dịch) để điều trị nghẹt mũi. Kết hợp kiểu này, đôi khi nó còn dùng để điều trị những triệu chứng ở mũi trong cảm lạnh thông thường.
-Kháng histamin đường uống còn được dùng để điều trị những dạng dị ứng với thuốc (như aspirin), ngăn ngừa và điều trị triệu chứng nhức đầu migraine, giảm bớt triệu chứng mệt mỏi vào buổi sáng. Bạn cũng có thể dùng thuốc kháng histamin dạng viên có chứa những loại thuốc như cyclizine hoặc cinnarizine để ngăn ngừa bệnh lúc đi du lịch hay di chuyển.
-Kháng histamin dạng dầu hay kem có tác dụng cục bộ dùng để thoa trên da. Kháng histamin dạng kem và viên đều có tác dụng làm giảm nổi mề đay, vết sưng màu trắng gây ngứa ngáy trên da thường gây ra bởi côn trùng cắn hoặc đốt. Kháng histamin dạng uống cũng được dùng để điều trị phát ban mãn tính.
-Thuốc nhỏ mắt có chứa kháng histamin như antazoline có thể được nhỏ vào mắt để điều trị viêm kết mạc dị ứng (sưng và kích thích một bộ phận của mắt).
-Thuốc kháng histamin dạng tiêm như chlorphenamine được dùng sau khi tiêm adrenaline trong cấp cứu để điều trị những phản ứng dị ứng nghiêm trọng như shock quá mẫn và phù mạch máu.
-Thuốc viên histamin gây buồn ngủ đôi khi cũng được dùng để trị triệu chứng ngứa có liên quan đến chàm nặng, ghẻ hoặc côn trùng cắn. Nó không có tác dụng điều trị chính bản thân bệnh chàm như có thể giúp phá vỡ chu trình ngứa-gãi có thể làm triệu chứng nặng hơn, đặc biệt là ở trẻ em và những người gãi khi ngủ.
-Những loại kháng histamin khác bao gồm diphenhydramine đôi khi được dùng để làm dịu căng thẳng và giảm run ở những người bị Parkinson, và hydroxyzine được dùng để điều trị lo âu và căng thẳng. Một số loại kháng histamin có tên là kháng H2, có thể được dùng để điều trị loét đường tiêu hóa.
Đối tượng sử dụng
-Những loại kháng histamin cũ như chlorphenamine và cinnarizine có thể gây buồn ngủ. Bạn không nên dùng nếu cần phải lái xe, sửa chữa máy móc hoặc làm những công việc nguy hiểm. Hãy hỏi ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ nếu bạn không biết chắc thuốc có gây buồn ngủ hay không và để tìm ra những hoạt động nào được xem là an toàn sau khi uống. Luôn đọc những hướng dẫn kèm theo ở vỏ thuốc.
-Nhiều loại kháng histamin an toàn khi dùng đối với trẻ em, tuy nhiên bạn nên kiểm tra lại với dược sĩ và bác sĩ trước khi cho trẻ uống và luôn đọc thông tin về liều lượng một cách cẩn thận. Hydroxyzine không nên được cho trẻ dưới 6 tháng tuổi và promethazine và trimepazine không thích hợp với trẻ dưới 2 tuổi.
-Phụ nữ nên tránh tất cả những loại thuốc không cần thiết nếu đang có thai - nếu bạn có những triệu chứng nặng, hãy xin lời khuyên của các bác sĩ. Thay vì uống thuốc, hãy cố thử tránh những thứ có thể gây ra triệu chứng cho bạn như lông súc vật hoặc len.
-Kháng histamin có thể làm một số tình trạng trở nên nặng hơn, chẳng hạn như glaucoma và phì đại tiền liệt tuyến. Bạn nên tránh sử dụng kháng histamin hoặc giảm liều xuống nếu bạn có bệnh gan hoặc thận.
-Bạn không nên dùng terfenadine cùng lúc với thuốc kháng nấm đường uống, nước ép nho, hoặc một số loại kháng sinh khác - hãy hỏi ý kiến bác sĩ do những sự kết hợp trên có thể gây tổn thương đến tim.
Tác dụng phụ của nhóm thuốc kháng H1
-Tác dụng phụ chính của những loại kháng histamin cũ là gây buồn ngủ. Sau khi dùng thuốc khoảng vài ngày, có thể tác dụng này sẽ giảm đi. Những tác dụng phụ khác có thể là nhức đầu, khô miệng và nhìn mờ.
  !important; |
-Kem bôi kháng histamin đôi khi có thể gây tăng nhạy cảm da, có nghĩ là da có phản ứng quá mức đối với những kích thích nhẹ như sờ chạm. Không nên thoa những loại kháng histamin có tác dụng cục bộ lên những vùng da bị chàm và không nên dùng kéo dài hơn 3 ngày trong cùng một đợt điều trị.
-Những loại kháng histamin mới ít gây buồn ngủ hơn nhưng đôi khi cũng có. Tránh lái xe cho đến khi bạn biết rõ thuốc có thể gây ra những tác dụng gì trên người mình.
-Terfenadine, thường được dùng để điều trị sốt cỏ khô có những tác dụng phụ đặc biệt, trong đó bao gồm làm cho tim đập nhanh hơn và theo một cách bất thường.
Một số thuốc kháng histamin H2 thường dùng
Còn được gọi là các chất đối kháng H2, được tìm thấy rất lâu, sau các chất kháng H1. Thuốc đầu tiên được đưa ra thị trường là cimétidine, sau đó đến ranitidine, famotidine và nizatidine. Các chất kháng H2 ức chế cạnh tranh với các thụ thể H2 của histamine mà hậu quả chính dẫn đến là giảm sự tiết acide dịch vị cả ngày lẫn đêm hay trong các bữa ăn. Mức độ tác dụng sinh học đối kháng H2 thay đổi từ 50% ở ranitidine đến 90% đối với nizatidine. Các thuốc này thường được cho một lần vào buổi tối để giảm sự tiết acide dịch vị về đêm. Chúng được bài tiết qua thận, Cimétidine có tác dụng ức chế cytochrome P-450 trong khi các chất cùng nhóm ít có tác dụng này.
Công dụng của các thuốc kháng H2
Acide dịch vị là nguyên nhân chính gây nên tình trạng xuất hiện các vết loét dạ dày- ruột và làm chúng lâu lành sẹo. Do đó, các chất kháng histamine H2 được chỉ định điều trị cho các trường hợp viêm loét dạ dày, tá tràng cũng như các xuất huyết tiêu hóa trên do loét mà đặc biệt các kháng H2 dạng chích là sự lựa chọn hàng đầu. Các chất đối kháng thụ thể H2 của histamine, đặc biệt là famotidine, có thể cho nhiều kết quả tốt trên các triệu chứng của vài trường hợp bệnh tâm thần.
Tác dụng phụ
Các chất đối kháng H2 có thể gây chậm nhịp tim do làm giảm tác dụng chronotrope+ của histamine và vài tác dụng ngoại ý khác nhưng thường không nghiêm trọng.
+Cimétidine có thể có các tác dụng ngoại ý dạng nội tiết : làm gia tăng nồng độ prolactine trong huyết thanh, có thể dẫn đến tình trạng gynécomastie và tiết nhiều sữa. Cimétidine cũng có tác dụng kháng androgène khi đẩy các dihydrotestosterone ra khỏi những vị trí kết nối và người ta đã ghi nhận được một số trương hợp bất lực khi dùng cimétidine.
+Cimétidine còn có tác dụng ức chế cytochrome P-450 nên có thể làm giảm tốc độ chuyển hoá sinh học ở gan của một số thuốc khác như : các thuốc kháng đông uống, các benzodiazépines, b-bloquants, ciclosporine, théophylline và làm cho nồng độ của các thuốc này tích tụ cao hơn giới hạn thông thường.
Các chất thay đổi biến dưỡng histamine
Một số thuốc và hoá chất có thể làm thay đổi sự tổng hợp và biến dưỡng của histamine
-Ức chế sự tổng hợp: Tritoqualine ( Hypostamine) là một chất ức chế men L- histidine décarboxylase, ngăn chặn sự tổng hợp histamine từ histidine nhưng chỉ hữu hiệu khi dùng liều cao, 2-10 viên 100mg/ ngày, nên ít dùng hiện nay;
-Ức chế sự phóng thích: bằng những cơ chế chưa được xác định rõ, một số dược chất có thể tham gia vào việc ngăn chặn sự phóng thích histamine cũng như serotonine, prostaglandine, leucotrien và cũng được sủ dụng điều trị.
+Cromoglycate ( LOMUDAL , OPTICRON , NALCRON ): là chất được phát hiện đầu tiên do tình cờ.Cromoglycate được dùng dưới dạng tại chỗ để phòng ngừa các cơn suyễn , điều trị viêm kết mạc dị ứng , viêm mũi dị ứng.
+Nédocromyl (TILADE , TILAVIST): có các dược tính và chỉ định điều trị như Cromoglycate.
+Kétotifène ( ZADITEN ): Kétotifène ức chế sự phóng thích histamine và còn có tác dụng anti-PAF (platelet activating factor ), được dùng điều trị phòng ngừa suyễn. Tác dụng phụ chủ yếu là khô miệng, chóng mặt, rối loạn tiêu hoá
+Oxatomide (TINSET): là chất ức chế sự khử hạt của các mastocyte và có tính đối kháng với thực thể H1. Oxatomide có thể gây an thần và rối loạn vận động khi dùng quá liều. Chỉ định điều trị: mề đay mạn tính, chàm thể tạng.
+Lodoxamide (ALMIDE): có tính ức chế sự khử hạt của các mastosyte được dùng dưới dạng thuốc nhỏ mắt điều trị dị ứng.
-Kích hoạt sự phóng thích: trong một vài trường hợp, có một số thuốc có thể gây sự phóng thích Histamine liên tục và được xem như là tác dụng ngoại ý. Các thuốc thường có tác dụng trên gồm: atropine, morphine, dextran, polvinylpyrolidone.
Vấn đề phối hợp các chất kháng histamine H1 và H2 trong điều trị
Sự phóng thích histamine sẽ gây ra nhiều tác dụng khác nhau thay đổi tùy vị trí của các thụ thể H1 và H2. Các chất đối kháng histamine H1 được dùng để làm dịu các phản ứng dị ứng trong khi các chất đối kháng histamine H2 được dùng để điều trị các rối loạn đường tiêu hóa do tăng tiết HCl ở dịch vị. Tuy nhiên, sự hiện diện của thụ thể H2 ở mạch máu cũng có thể là lý do cho phép dùng các chất kháng histamine H2 để điều trị các phản ứng dị ứng như mề đay, viêm mũi dị ứng.
So sánh các tác dụng chính của thụ thể H1 và H2
Cơ quan tác động | Thụ thể H1 | Thụ thể H2 |
Tim | Giảm sự dẫn truyền nhĩ thất | Inotrope + Chronotrope + |
Mạch máu | Dãn nở nhanh, thoáng qua Co mạch vành | Dãn nở Dãn mạch vành |
Cơ trơn | Co cơ trơn | Dãn cơ |
Sự tiết dịch vị | Không | Tăng tiết HCl |
Dị ứng | Tăng tính thấm mao mạch | Có thể có tác dụng điều hòa miễn dịch |
Hệ thần kinh TƯ | Kích thích sự chăm chú Làm giảm sự ăn ngon | Tăng khử cực tế bào |
Trên thực tế, khi các chất kháng histamine H1 có đáp ứng không trọn vẹn khi điều trị mày đay mạn tính, người ta thường dùng phối hợp thêm các chất kháng histamine H2. Một số tác giả tin rằng sự phối hợp này có thể mang lại các cải thiện đáng kể các triệu chứng hơn là chỉ dùng riêng lẻ các kháng histamine H1 trong viêm mũi dị ứng. Các chất kháng histamine H1 có thể làm giảm các triệu chứng chảy nước mũi nhưng lại kém hiệu quả đối với các triệu chứng sung huyết ở mũi. Sự phối hợp các chất kháng histamine H1 và H2 trong những trường hợp này tỏ ra hiệu quả hơn.
Người ta thường dùng Cétirizine phối hợp với Ramitidine hay Cimétidine. Một số tác giả khác tỏ ra dè dặt hơn và vấn đề vẫn còn được bàn cãi nhưng thực tế cho thấy sự phối hợp điều trị giữa các chất kháng histamine H1 và H2 tỏ ra có đáp ứng rất tốt.
Nói tóm lại, việc sử dụgn các thuốc kháng histamine trong hầu hết các bệnh có nguyên lý riêng, mỗi cơ chế đều thể hiện và tác động chính của từng thuốc lên trên các cơ quan khác nhau, việc sử dụng thuốc cũng nên cân nhắc trong các trường hơp phản ứng dị ứng hoặc nổi mề đay trong bệnh lý ký sinh trùng, nên nắm bắt rõ ràng:
[1] cơ chế gây dị ứng của bệnh nhân;
[2] Dùng loại thuốc kahngs histamine nào;
[3] Dùng trong thời điểm nào, liều dùng, đối tượng, bệnh đi kèm, nhất là các bệnh lý gan, thận, thần kinh, các chống chỉ định, thận trọng;
[4] Dùng trong thời gian bao lâu (vì phần lớn bệnh ký sinh trùng điều trị trong thời gian dài và sự tồn tại kháng nguyên sau điều trị là tất nhiên cũng diễn tiến kéo dài, do vậy không phải lúc nào dùng cho đến khi nào hết ngứa, hết nổi mẩn sẽ dẫn đén tình trạng tích thuốc và gây độc, hoặc tác dụng ngoại ý trường diễn không cần thiết.
Tài liệu tham khảo
1.Nguyễn Hữu Đức (2005). Sử dụng thuốc kháng histamine. Dược lâm sàng, NXB y học, trang 118-121
2.L Keith French (2009). Toxicity, Antihistamine. http://emedicine.medscape.com
3.S.Thomas (2007). Antihistamine poisoning. Medicine, Vol.35, Issue 11, pp. 592-593 http://linkinghub.elsevier.com
4.Toxicity, Antihistamine. eMedicine Emergency Medicine (2006). http://www.tripdatabase.com
5.Amelia Reyes-Jacang (2007). Antihistamine Toxicity in Children. http://cpj.sagepub.com