Sốt rét giết chết hàng triệu người mỗi năm, sự rút khỏi thuốc chloroquine khỏi danh mục điều trị cho ký sinh trùng Plasmodium falciparum là do tình hình kháng thuốc lan rộng. Một số nhóm thuốc mới gọi là artemisinins đang sẵn có, nhưng lại không vừa phải với tất cả mọi người tại các quốc gia lưu hành sốt rét có tiếp cận và có thể nhanh chóng đối mặt với số phận tương tự chloroquine trừ khi chúng phối hợp với một thuốc khác. Ngoài ra, hiệu quả của thuốc sử dụng rông rãi, dẫn đến giảm lan truyền bệnh. Tuy nhiên, sử dụng liệu pháp ACTs vẫn có thể dẫn đến kháng thuốc tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nên cũng nên thận trọng khi dùng và công việc giám sát hiệu lực thuốc sốt rét, nhất là các thuốc ACTs là cần thiết và là hoạt động rất quan trọng hiện nay.
1. Thuốc mới trong điều trị bệnh sốt rét
Các nhà khoa học Trường Đại học Liverpool, Vương quốc Anh đã tổng hợp thành công thuốc mới dùng trong điều trị bệnh sốt rét dựa trên cấu trúc của artemisinin (thuốc điều trị sốt rét đang lưu hành hiện nay. Hàng năm có gần một triệu người tử vong do nhiễm ký sinh trùng gây bệnh sốt rét trên thế giới. Trong khi đó thuốc artemisinin thường được dùng trong điều trị bệnh sốt rét lại rất khó để sản xuất số lượng lớn và không ổn định trong điều trị khi đưa vào cơ thể. Do vậy, các nhà khoa học đã cố gắng nghiên cứu để phát hiện ra thuốc mới nhằm thay thế thuốc đang sử dụng bằng con đường tổng hợp thuốc mới trên cơ sở gắn cấu trúc hóa học của artemisinin với cấu trúc phân tử hữu cơ giúp duy trì sự ổn định của thuốc dẫn tới kéo dài thời gian phân giải thuốc để tiêu diệt và làm giảm sự xuất hiện trở lại của ký sinh trùng gây bệnh sốt rét trong máu.
Giáo sư Paul O'Neill, Trường Đại học Liverpool cho biết, bệnh sốt rét đang ảnh hưởng trầm trọng đến cuộc sống của người dân ở các nước nghèo trên thế giới. Thuốc mới này là một giải pháp hữu hiệu để mang lại cơ hội trong điều trị bệnh sốt rét ở các nước nghèo bởi vì nó có khả năng hấp thụ dễ dàng vào cơ thể qua đường miệng, có cấu trúc hóa học ổn định và hiệu quả cao trong điều trị. Hơn thế nữa, nó được làm từ chất hữu cơ đơn giản, có khả năng sản xuất số lượng lớn với chi phí thấp dẫn tới giá thành rẻ và hiệu quả điều trị cao hơn so với thuốc đang sử dụng hiện nay.
2. Nghiên cứu thuốc sốt rét mới trên một đích cũ
Nghiên cứu tiến hành do nhóm tác giả Fatima Bousejra-El Garah, Jean-Luc Stigliani, Frédéric Coslédan, Bernard Meunier and Anne Robert tiến hành cho biết các nghiên cứu đầu vào của các thuốc sốt rét: Một mô hình chất đồng đẳng của phân tử PfATP6 - một loại Plasmodium falciparum calcium ATPase được thiết kế sử dụng cấu trúc tinh thể của các đồng phân SERCA1a trên động vật có vú. Các thuốc sốt rét chứa peroxide được cắt ngắn với cả mô hình PfATP6 và cấu trúc SERCA1a X-ray. Tính dính kết của chúng biết trước không có liên quan đến các hoạt tính chống sốt rét. PfATP6 - một ATPase lệ thuộc calcium của ký sinh trùng Plasmodium falciparum, được xem là đích tập kích của thuốc sốt rét artemisinin và các dẫn suất. Cấu trúc 3D của phân tử PfATP6 được xây dựng dựa trên mô hình của cấu trúc tinh thể của SERCA 1a - một đồng đẳng của động vật có vú. Sự công nhận của mô hình này đạt được nhờ vào sử dụng công cụ kiểm tra đối chứng. AutoDock4 dùng để tiên đoán quá trình gắn kết của artemisinin (và các đồng phân) và các thuốc sốt rét khác nhau và khác với PfATP6, cho một thử nghiệm in vitro, cũng được báo cáo trong nghiên cứu này. Cơ hội mới với cơ chế mới như thế, thuốc mới hy vọng góp phần vào chống kháng với các ký sinh rtùng đa kháng thuốc như hiện nay.
3. Phối hợp thuốc Artemisinin-Naphthoquine - thuốc mới điều trị sốt rét tương lai.
Bài đăng tải do tác giả Francis Hombhanje cho biết với sự lan rộng của ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc với các thuốc sốt rét mới và sự nỗ lực của ngành dược phẩm là nhu cầu bức thiết. Một số phối hợp thuốc dựa trên nền thuốc artemisinine (artemisinin-based combinations_ABCs) mới đã và đang được nghiên cứu để đối phó với tình trạng kháng này. Một trong số đó là phối hợp artemisinin-naphthoquine (ANQ) là một lựa chọn hiện nay.
Phối hợp thuốc ANQ là một dẫn suất của 2 thuốc sốt rét phát triển độc lập nhau, đó là Artemisinin và Naphthoquine phosphate đang được phát triển và một trong những biệt dược của phối hợp này đã và đang thử nghiệm thành công tại Trung Quốc là Arco. Cả hai thuốc đã chứng minh hiệu lực và tính dung nạp thuốc rất tốt khi chúng dùng dưới dạng đơn trị liệu. Tuy nhiên, phối hợp thuốc đã mang lại một lợi điểm mới: là chúng có thể chỉ định với liều dùng duy nhất và đường uống (liệu trình một ngày).
Một số nghiên cứu lâm sàng được tiến hành từ lâu chi ra liều duy nhất có hiệu lực cao trong việc làm giảm đi mật độ ký sinh trùng sốt rét cao đến zero trong vòng 24 - 48 giờ. Liều chỉ định rất an toàn và dung nạp rất tốt. Tiềm năng của phối hợp thuốc mới có thể đưa vào liệu pháp ưu tiên một trong lựa chọn đầu tay cho điều trị các ca sốt rét chưa biến chứng.
Hiệu lực của phối hợp thuốc này đã được chứng minh trên nhiều nghiên cứu, đặc biệt nghien cứu đánh giá hiệu lực liều đơn duy nhất của thuốc phối hợp artemisinin–naphthoquine phosphate trên bệnh nhân sốt rét chưa biến chứng do Plasmodium falciparum do nhóm tác giả Thein Tun, Hla Soe Tint, Khin Lin, Thar Tun Kyaw, Moe Kyaw Myint, Win Khaing và Zaw Win Tun đang công tác tại khoa nghiên cứu y học Anisakhan, Pyin Oo Lwin 05062, Mandalay Division, Myanmar và khoa y học dự phòng và xã hội của đại học y khoa Mandalay, Myanmar đồng tiến hành và công bố vào năm 2009.
Kết quả cho thấy tất cả nhóm thuốc ACTs được khuyến cáo do Tổ chức y tế thế giới là liệu trình 3 ngày tại hầu khắp quốc gia. Nghiên cứu này đã đánh giá hiệu lực phác đồ của một thế hệ thuốc mới liều đơn duy nhất ACT chứa Artemisinin plus Naphthoquine. Liều duy nhất 8 viên gồm trong thành phần (400 mg naphthoquine + 1.000 mg artemisinin) chỉ định coh người lớn sốt rét chưa biến chứng do Plasmodium falciparum.
Theo dõi trong quá trình nghiên cứu về thân nhiệt, sạch ký sinh trùng và xuất hiện lại ký sinh trùng cũng như các đặc điểm lâm sàng theo thời gian theo dõi D0, 1, 2, 3, 7, 14, 21 và 28. Tổng số 53 bệnh nhân dương tính, có soosts hoặc tiền sử sốt trong vòng 24 giờ trước đó, theo dõi đánh giá đến cuối cùng. Thời gian cắt sốt trung bình 18.2 ± 8.6 h và thời gian cắt ký sinh trùng trung bình là 34.6 ± 14.3 h. Đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ (ACPR) trong số 52 ca, tỷ lệ đạt 98.1% (95% CI, 91.1–99.9).Một bệnh nhân được phân loạithất bại ký sinh trùng muộn (LPF_late parasitological failure) vì xuất hiện lại ký sinh trùng vào D14. Thuốc dung nạp tốt và không có tác dụng phụ đáng kể. Vì dùng liều duy nhất nên các nhân viên y tế cho chỉ định và theo dõi trực tiếp rất dễ dàng.
4. Trioxaferroquines: Một loại thuốc sốt rét “lai” mới
Nhóm tác giả FranÇois Bellot, Frederic Cosledan, Laure Vendier, Jacques Brocard, Bernard Meunier và Anne Robert đang công tác tại phòng thí nghiệm hóa dược của Trung tâm nghiên cứu quốc gia Pháp (CNRS), Narbonne, Toulouse, Pháp và Viện khoa học kỹ thuật Lille, UMR CNRSVilleneuve, Pháp đồng tiến hành nghiên cứu và đăng tải trên tạp chí J. Med. Chem., 2010,
Đánh giá về hoạt tính chống sốt rét, tổng hợp thuốc về một loạt phân tử mớichống sốt rét tiềm năng, tên gọi là Trioxaferroquines đã được báo cáo và đăng tải kết quả. Trioxaferroquines là một thuốc chống sốt rét lai (hybrid antimalarial drugs) chứa 1,2,4-trioxane cùng giá trị gắn với phân tử ferroquine (Fq), một chất dẫn suất tổng hợp ferrocenylquinoline hiện đang thử lâm sàng. Mục đích phối hợp này trong một cấu trúc đơn, một sắt (II), một phân tử 1,2,4-trioxane, như trong một artemisinin, và thay thế bằng quinoline, như trong chloroquine. Toàn văn bài viết đăng tải trên trang http://pubs.acs.org/doi/pdfplus/10.1021/jm100117e
5. Xác định một phân tử thuốc sốt rét mới nhờ vào phép tính xác suất thống kê tuyến tính và các phép sàng lọc hình học topo
Nhóm tác giả gồm Nassira Mahmoudi, Jesus-Vicente de Julián-Ortiz, Liliane Ciceron, Jorge Gálvez, Dominique Mazier, Martin Danis, Francis Derouin và Ramón García-Domenech đang công tác tại INSERM U511, La bô sinh học tế bào, miễn dịch và sinh học phân tửvề bệnh truyền nhiễm và ký sinh trùng, Bệnh viện Pitié-Salpêtrière, Paris, Đại học Pierre et Marie Curie, Paris, Pháp; La bô vi ký sinh (EA3520) và bệnh viện Saint-Louis, Paris, Claude Vellefaux, Pháp; khoa dược đaihọc València, Tây Ban Nha, khoa sinh học tế bào, đai học València, Tây Ban Nha đồng tiến hành nghiên cứu.
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá mối liên quan giữa cấu trúc-hoạt tính về mặt số lượng sử dụng một cơ sở dữ liệu 395 hợp chất đã được thử nghiệm trước đây chống lại các chủng nhạy chloroquine của giai đoạn Plasmodium falciparum trong hồng cầu để tiên đoán các thuốc mới trên in vitro. Các chỉ số liên quan đến phép toán hình học topo được sử dụng như một chỉ tiêu mô tả cấu trúc và liên quan đến hoạt tính thuốc sốt rét thông qua sử dụng phân tích tuyến tính (LDA) và hồi quy đa tuyến tính (MLR). 2 chỉ số thu nhận được là FD1 và FD2, cho phép tiến hành phân loại thành công 90% và 80% các hợp chất. Giá trị IC50 của hợp chấtđược giới thiệu để tính toán MLR phù hợp với hoạt tính trên in vitro.
Kết quả cho thấy qua sử dụng mô hình này, một bộ gồm 27 thuốc chống lại dòng nhạy với CQ (3D7) của P. falciparum đã được lựa chọn và đánh giá in vitro. Trong số các thuốc này là monensin, nigericin, vincristine, vindesine, ethylhydrocupreine và salinomycin với trị số in vitro IC50s tại nồng độ nanomolar lần lượt 0.3, 0.4, 2, 6, 26 và 188 nM. Các hợp chất khác như hycanthone, amsacrine, aphidicolin, bepridil, amiodarone, ranolazine và triclocarban chỉ ra giá trị in vitro IC50 < 5μM trong mô hình toán học này. Các kết quả cho thấy sự hữu dụng của tiếp cận lựa chọn và thiết kế các thuốc sốt rét mới chống lại ký sinh trùng P. falciparum bước đầu có hiệu quả.
6. Đến ….vaccin “cây thuốc lá" phòng bệnh sốt rét
Trên cánh đồng thí nghiệm của hãng Biosource Technologie ở California, các nhà sinh học đã trồng rất nhiều cây thuốc lá. Nhìn mắt thường, chúng không khác gì những cây thuốc lá cùng họ. Có điều, chúng không những không có hại cho sức khỏe mà còn có thể tạo ra các kháng nguyên giúp con người chiến thắng sốt rét - loại dịch bệnh mà đến nay khoa học vẫn phải bó tay trong nỗ lực tiêm phòng. Cha đẻ của loại "vaccin thuốc lá" này là nhà sinh vật học Tom Turfen. Thật khó tin, song ông cho biết, cứ 1ha cây thuốc lá có thể cho 250kg vaccin mỗi tháng. GS. Henry Daniell - nhà sinh học phân tử của Trường đại học Florida, Mỹ cũng đang nghiên cứu cách sản xuất "vaccin cây thuốc lá" để chữa các bệnh tiểu đường týp 1, bệnh viêm gan C, bệnh tả.