Thành phố Hồ Chí Minh: Vi phạm về hành nghề y, dược tăng
Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh vừa tổng kết kết quả thanh tra đợt 1 năm 2010 đối với các cơ sở hành nghề y, dược, kinh doanh mỹ phẩm trên địa bàn thành phố. Báo cáo của Thanh tra cho thấy, số cơ sở kiểm tra của năm 2010 dù ít hơn số cơ sở kiểm tra năm 2009 (3.796/4.102) nhưng số cơ sở vi phạm bị phát hiện năm nay lại tăng so với năm trước với 816 cơ sở vi phạm. Các đoàn thanh tra đã xử phạt tổng số tiền gần 2,4 tỷ đồng, đình chỉ 159 cơ sở kinh doanh. Lỗi vi phạm nhiều nhất tập trung vào không gia hạn chứng chỉ hành nghề và giấy chứng nhận đủ điều kiện hành nghề (chiếm gần 37%), người nước ngoài làm việc không phép, không có bằng cấp chuyên môn...
Khủng hoảng hoạt động phản chiếu và lý giải khoa học
Bất kỳ hoạt động nào của cơ thể con người đều do não bộ điều khiển. Cùng một lúc, não có thể ra lệnh cho các bộ phận khác nhau trong cơ thể thực hiện các động tác khác nhau. Song đôi khi điều tưởng chừng rất bình thường ấy lại không diễn ra như người ta mong muốn. Đó chính là những gì mà những người bệnh của chứng khủng hoảng hoạt động mang tính phản chiếu “gương” đang phải đối mặt.
Bệnh nhân đầu tiên
Andree Marion, 47 tuổi, là một nữ bệnh nhân người Canada đã bị mắc phải dạng khủng hoảng hoạt động phản chiếu trong nhiều năm qua. Tay phải của Marion không chỉ dùng để thao tác bình thường, các hoạt động của nó còn cho cô biết tay bên trái đang làm gì bởi trong suốt những năm biểu hiện của chứng khủng hoảng hoạt động phản chiếu các chi bên trái và phải của cô luôn có các động tác bắt chước nhau.
Ngay cả khi Marion thực hiện một thao tác tay rất bâng quơ, tình cờ không hề dự tính trước thì cánh tay bên đối diện cũng không ngừng bắt chước y hệt. Nó khiến cho người bệnh rơi vào tình trạng rất vụng về, lóng ngóng và không thể làm việc gì một cách trọn vẹn. Ngoài Marion, một số người trong gia đình cô cũng có biểu hiện của dạng khủng hoảng hoạt động phản chiếu này, một số có mang gen song không chịu ảnh hưởng và không có các triệu chứng tương tự. Bác sĩ Stacy – người trực tiếp điều trị bệnh cho bệnh nhân Marion cho biết: Đây là trường hợp khủng hoảng hoạt động phản chiếu đầu tiên trên thế giới mà ông từng biết. Bệnh nhân thậm chí không thể viết chữ, bởi mỗi khi cô cố gắng cầm bút viết thì tay còn lại cũng chực làm theo. May mắn là Marion có thể đi được, mặc dù việc đi lại cũng hết sức khó khăn và cô phải nỗ lực từng bước một.
Và những lý giải khoa học
Khủng hoảng hoạt động mang tính phản chiếu là gì? Các nghiên cứu về não bộ đã cho chúng ta biết rằng: hoạt động của cơ thể con người chịu sự kiểm soát của hai bán cầu não phải và não trái. Não phải thường là não kiểm soát các hoạt động của phần thân và chi bên trái. Cùng một lúc, hoạt động não ở một người bình thường có thể điều khiển người đó tay phải làm cái này và tay trái làm cái khác. Tuy nhiên, ở những người mắc phải dạng khủng hoảng hoạt động mang tính phản chiếu, khi hoạt động bên tay phải diễn ra, thì tay trái của họ cũng hoạt động giống y hệt động tác của tay phải và ngược lại. |
Các nhà nghiên cứu đã đặt ra giả thuyết về dạng khủng hoảng có mang tính chất di truyền. Trong dòng họ Marion đã có người bị đột biến gen và dẫn tới việc bị mắc dạng khủng hoảng lạ. Sự đột biến gen này đã được duy trì ở các thế hệ trong dòng họ và khiến cho một số thành viên trong huyết thống gia đình cũng bị hiện tượng tương tự. Nghiên cứu về dạng khủng hoảng đặc biệt này, các nhà khoa học tập trung nghiên cứu về vấn đề não kiểm soát các hoạt động này như thế nào.
Những kết quả nghiên cứu ban đầu đã chỉ ra rằng: sự đột biến gen trong cơ thể đã khiến cho quá trình tạo protein trong cơ thể bị đảo lộn. Cơ thể tạo ra thiếu một protein nào đó trong não bộ. Và đây chính là nguyên nhân tác động trực tiếp đến hoạt động truyền tín hiệu trong não. Đặc biệt là hoạt động truyền tín hiệu của phần não trái. Từ đó dẫn tới khiếm khuyết trong việc ra lệnh của não trái, cũng như sự điều khiển của các bán cầu não đối với phần cơ thể bên phải và bên trái. Hiện tượng được ghi nhận ở đây là đôi khi các bộ phận trái và phải của cơ thể cùng nhận được một tín hiệu giống hệt nhau (dù cường độ tín hiệu có thể là khác nhau) dẫn đến việc chúng thao tác y hệt nhau.
Gen được xác định là đột biến và gây ra hiện tượng nêu trên là DCC (Deleted in Colorectal Carcinoma). Theo TS. Rouleau - người đã xác định gen gây bệnh - thì ở mỗi người trong gia đình Marion đều có mang hai phiên bản gen DCC, song ở những người có biểu hiện của bệnh thì chỉ có một phiên bản DCC bị lỗi. Do đó có các thành viên trong gia đình cũng mang gen DCC song không có biểu hiện bệnh.
Prion gây bệnh bò điên và ứng dụng trong y học
Prion gây ra bệnh cho bò (bò điên) hay cho người (Creutzfeldt-Jakob). Quốc gia nào phát hiện có bệnh bò điên thì thịt bò nước đó bị tẩy chay, vì thế tác nhân gây bệnh bò điên bị coi là thủ phạm gây hậu quả xấu cho xã hội. Tuy nhiên, những nghiên cứu thời gian gần đây lại thấy không phải tất cả các prion đều xấu...
Phát hiện nhiều loại protein - prion
Prion có thể biến một protein bình thường thành bất thường gọi là protein-prion. Chữ prion thường gắn liền với ấn tượng xấu. Ngày nay đã tìm thấy nhiều loại protein-prion, chứ không phải chỉ có một loại gây bệnh não xốp (Creutzfeldt-Jakob). Trong chúng có những loại hữu ích. Adriano Aguzzi, nhà thần kinh học tại ĐH Zurich đã thử nghiệm, phát hiện ra vấn đề lý thú: Ở nhóm chuột biến đối gen, tế bào bị thiếu các protein-prion, việc truyền tín hiệu xuống các sợi thần kinh sciatic chậm trễ hơn so với nhóm chuột có đủ protein-prion. Theo các nghiên cứu trước đó, Adriano Aguzzi giải thích: Các protein-prion trực tiếp đi đến các tế bào Schwann. Các tế bào này có vai trò bao bọc quanh các tế bào thần kinh sản xuất ra myelin, một loại vật liệu cách nhiệt điện, nhằm hỗ trợ sự truyền tín hiệu giữa các tế bào thần kinh. Khi thiếu các protein-prion, sự dẫn truyền thần kinh sẽ bị trở ngại. Phục hồi protein-prion đến các tế bào Schwann, vỏ bọc myelin được sửa chữa, chức năng truyền tín hiệu trở lại bình thường. Ngoài các protien-prion giúp chuyển tín hiệu thần kinh này, còn phát hiện ra nhiều protein- prion ở những nơi khác, có chức năng riêng biệt.
 |
Hình ảnh prion gây bệnh bò điên. |
...Và những ứng dụng bước đầu
Tìm căn nguyên bệnh
Năm 2000, các nhà khoa học Mỹ tiêm chất chiết xuất từ não của người tử vong vì bệnh Alzheimer vào chuột thí nghiệm, thấy chất chiết xuất này kích hoạt tạo thành các mảng protein TAU đặc thù của bệnh Alzheimer. Vào thời điểm ấy, cơ chế truyền bệnh của protein-prion đã được biết, nhưng các nhà y học không quan tâm, vì cho rằng các mảng này tạo thành ngoài các neuron, chất chiết xuất chỉ làm tăng tiến trình phát triển mà không ảnh hưởng trực tiếp đến các neuron.
Sau này các nhà nghiên cứu Anh, Thụy Sĩ lặp lại thử nghiệm này và có cách giải thích khác: Tiêm một phần não của chuột bị bệnh Alzheimer vào não chuột lành để các sợi protein TAU đặc thù của bệnh Alzheimer phân tán trong não chuột lành. Các chuột lành sau đó sẽ mắc bệnh Alzheimer. Các protein-TAU thực chất là protein- prion đặc thù của bệnh Alzheimer. Theo TS. Markus Tolnay, các protein-TAU (tức các protein-prion đặc thù) trong bệnh Alzheimer nằm trong neuron có khả năng vượt ra ngoài màng tế bào, xâm nhập vào các tế bào lành xung quanh làm cho bệnh phát triển. Theo TS. Marc Diamond thuộc Viện đại học California, San Francisco, có sự lây truyền của các protein-TAU đặc thù còn xảy ra ngay giữa các tế bào trong môi trường nuôi cấy. Xét ở khía cạnh nào đó, cách lây truyền của các protein-prion đặc thù trong bệnh Alzheimer giống như cách lây truyền protein-prion trong bệnh bò điên và tương tự như sự lây nhiễm của virut hay vi khuẩn. Vì vậy các nhà khoa học xếp bệnh Alzheimer vào bệnh lây nhiễm mặc dù bản chất sự lây nhiễm này là lây nhiễm qua protein-prion đặc thù chứ không phải lây nhiễm do vi sinh. Điều đặc biệt là các bệnh thoái hóa não có cơ chế tạo ra các mảng protein bất thường (tức các protein-prion) đều có cách lây nhiễm này. Parkinson cũng thuộc dạng bệnh này.
Hướng tìm các thuốc mới
Trường hợp cần ngăn chặn sự phát triển lây lan bệnh do protein- prion có hại:
Một tác động hay tổn thương sẽ để lại dấu ấn ở vòng xoắn, biến một tế bào bình thường thành tế bào có hình dạng kỳ dị với một protein- prion có tính đặc thù. Theo Yury Chernoff, nhà sinh vật tại Viện Công nghệ Georgia, protein- prion như một "bộ nhớ phân tử". Chúng nhớ việc thay đổi tế bào bình thường thành tế bào kỳ dị như thế nào và chuyển tới tế bào lành, lặp lại việc đó. Trên cùng một cá thể thì cách làm này của protein-prion làm bệnh nặng thêm; khi truyền từ vật này sang vật khác hay từ vật sang người thì làm bệnh lây lan. Nếu hóa giải được các protein-prion bất thường này thì chặn được sự phát triển, lây lan bệnh. Theo hướng này các nhà khoa học tạo ra vaccin synuclein. Vaccin này làm làm chậm được sự tiến triển của Parkinson. Dĩ nhiên người ta cũng có thể tạo nên vaccin hóa giải protein - TAU để làm chậm sự phát triển của Alzheimer. Có thể coi đây như là loại vaccin dùng điều trị (chống bệnh tiến triển nặng, chống bệnh lây lan).
Mặt khác, các tế bào Schawann không đóng vai trò sản xuất myelin mà chỉ tiếp nhận protein-prion, bao bọc lấy myelin, làm cho tế bào thần kinh ngoại vi, tế bào thần kinh nối các cơ quan và chân tay được kết liền (qua truyền tín hiệu) với não hay tủy sống, tạo nên mạng lưới hệ thần kinh trung ương. Protein-prion làm được chức năng này là nhờ PRP. Khi protein-prion thuộc loại xấu thì sự liên kết này không giúp cho sự truyền tín hiệu bình thường mà sẽ gây ra bệnh (ví dụ gây ra rối loạn thần kinh, thoái hóa não).
Claudio Soto, một nhà nghiên cứu thần kinh tại Đại học Texas cho rằng: Nếu protein-prion không đóng vai trò nào trong sự sản xuất myelin thì chỉ cần loại bỏ PRP ở động vật thì protein-prion sẽ không làm được nhiệm vụ này, tức là không thể làm lây nhiễm protein-prion. Thực tế ông và cộng sự đã tạo ra được các động vật không có PRP và không bị lây nhiễm bệnh kiểu prptein-proin. Đây là một hướng có tính chiến lược. Tuy nhiên vấn đề mắc mớ cuối cùng là khi loại bỏ PRP thì liệu sinh vật có những biến đổi gì có hại không?
Trường hợp cần phục hồi sự hư hỏng, thiếu hụt các protein-prion có lợi
Protein-prion cũng là một loại protein, đương nhiên việc sửa chữa khi hư hỏng đòi hỏi phải áp dụng công nghệ gen. Đây là việc khó, chưa thể làm ngay nhưng trong tương lai có thể làm được do sự phát triển nhanh chóng của công nghệ gen hiện đại. Khi thiếu hụt loại protein-prion đến tế bào Schawann thì tìm cách phục hồi sự thiếu hụt này như đã nói trong một số thí nghiệm của Adriano Aguzzi ở phần đầu. Tuy nhiên, vì chưa hoàn toàn rõ được các protein-prion đi đến các tế bào Schawann và bằng cách nào tế bào Schawann nhận được và giúp việc dẫn truyền tín hiệu thần kinh, nên chưa thể tổng kết quy luật để nhân rộng các kết quả thu được. Khác với thái độ hãi hùng trước đây với protein-prion, ngày nay, bên cạnh việc cảnh giác với loại xấu, người ta bình tâm coi chúng là một đối tượng nghiên cứu để giải thích căn nguyên bệnh, hướng đến tìm các thuốc mới.
Ngồi nhiều có hại cho nam giới!
Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ vừa cho biết: nam giới làm công việc văn phòng hoặc phải ngồi nhiều giờ trong ngày có nguy cơ bị gia tăng tỷ lệ mắc các bệnh về tim mạch, đột quị, béo phì….Nghiên cứu tập trung vào những người đàn ông thường xuyên ngồi khoảng 23 giờ/tuần. Tỷ lệ mắc bệnh tim mạch và tử vong do bệnh tim mạch ở những người này cao hơn tới 64% so với những người chỉ ngồi khoảng 11 giờ/tuần. GS. David Dunstan - người đứng đầu nhóm nghiên cứu nêu trên tại Trung tâm chăm sóc sức khoẻ cộng đồng Hoa Kỳ cho biết: Việc ngồi nhiều là một trong những nguyên nhân làm tăng cân dẫn tới chứng béo phì. Do vậy, cũng đồng nghĩa với tỉ lệ gia tăng đường huyết và mỡ máu ở những người này. Ngoài ra, tác giả công trình nghiên cứu về sự lưu thông (circulation) cũng khẳng định: chính sự lười vận động, chỉ ngồi một chỗ là nguyên nhân khiến máu khó lưu thông, dễ dẫn tới các bệnh tắc nghẽn mạch máu và nguy cơ tử vong do đột quỵ.
10 căn bệnh ung thư gây tử vong cao nhất thế giới
Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra căn bệnh ung thư, từ các loại ung thư do phóng xạ, ung thư do chất hoá học cho đến ung thư do virut... Các tế bào gây bệnh ung thư đã sinh trưởng như thế nào thật sự vẫn không máy móc nào có thể dự báo chính xác và đôi khi chúng vẫn là một bí ẩn khó giải mã. Ở Mỹ, khoảng 200 tỷ USD đã được chi trả cho các hoạt động nghiên cứu ung thư kể từ đầu thập niên 70 đến nay và tỷ lệ tất cả những người mắc bệnh ung thư được chẩn đoán theo thời khoá 5 năm ở Mỹ đã tăng từ 50% (những năm 1970) đã vọt lên 65% (hiện nay). Dưới đây là 10 dạng bệnh ung thư đã gây tử vong cho rất nhiều người ở Mỹ trong thời gian từ năm 2003 đến 2007. Dữ liệu được cung cấp bởi Viện nghiên cứu Ung thư Quốc gia Mỹ (NCI).
Ung thư phổi và phế quản: 792.495 người thiệt mạng
Ung thư phổi và cuống phổi là căn bệnh ung thư gây tử vong cao hàng đầu ở Mỹ. Theo đó hút thuốc lá và việc sử dụng các sản phẩm từ thuốc lá là nguyên nhân chủ yếu gây ra căn bệnh tai quái này, theo NCI thì độ tuổi thường hay mắc căn bệnh ung thư này nhất nằm trong độ tuổi từ 55 đến 65. Có 2 dạng bệnh ung thư chủ yếu: ung thư phổi tế bào lớn, dạng này khá thông dụng; và một dạng là ung thư phổi tế bào nhỏ thường có mức độ phát tán bệnh rất nhanh. Hơn 157.000 người đã bị chết vì căn bệnh ung thư phổi và cuống phổi vào năm 2010.
 |
Ung thư ruột kết và trực tràng |
Ung thư ruột kết và trực tràng: 268.783 người thiệt mạng
Theo NCI thì ung thư ruột kết hình thành trong các mô ruột kết, trong khi đó ung thư trực tràng phát tán với tốc độ rất chậm với khoảng vài inch tại ruột lớn gần hậu môn. Cả hai trường hợp ung thư này đều thể hiện ở việc nổi những cục nhỏ, những tế bào lành được gọi là "pô-líp" trải qua thời gian dài trở thành ung thư. Theo phòng khám Mayo Clinic thì nên chụp phim để tìm ra các "pô-líp" trước khi chúng chuyển sang giai đoạn ung thư. Ung thư ruột kết và trực tràng đã cướp đi mạng sống của hơn 51.000 người chỉ riêng năm 2010.
Ung thư vú: 206.983 người thiệt mạng
Ung thư vú là dạng bệnh ung thư phổ biến đứng hàng thứ hai đối với phụ nữ tại Mỹ. Ung thư vú cũng có thể xảy ra ở nam giới, ước tính có gần 2.000 đàn ông đã chết vì căn bệnh ung thư vú trong thời gian từ năm 2003 đến năm 2008. Dạng bệnh ung thư vú thường hình thành ở những ống dẫn sữa đổ về núm vú hoặc các tuyến sản sinh ra sữa ở nữ giới. Theo NCI, gần 40.000 người đã qua đời vì căn bệnh ung thư vú chỉ riêng trong năm 2010.
 |
Ung thư tuyến tụy. |
Ung thư tuyến tụy: 162.878 người thiệt mạng
Ung thư tuyến tụy bắt đầu hình thành từ những mô ở tuyến tụy, nơi thực hiện quá trình tiêu hoá và trao đổi chất trong cơ thể. Việc phát hiện và có biện pháp phòng ngừa sớm được xem là khá khó khăn bởi vì chứng bệnh này thường hình thành "lén lút" và phát triển với tốc độ nhanh. Theo NCI, ung thư tuyến tụy đã gây ra cái chết cho gần 37.000 người chỉ tính riêng trong năm 2010.
Ung thư tuyến tiền liệt: 144.926 người thiệt mạng
Theo NCI, dạng bệnh ung thư này là nguyên nhân gây tỷ lệ tử vong cao đứng hàng thứ hai ở nam giới, xếp sau ung thư phổi và cuống phổi. Ung thư tuyến tiền liệt thường bắt đầu hình thành một cách chậm chạp trong tuyến tiền liệt, nơi sản sinh tinh dịch nhằm thực hiện quy trình phát triển giống nòi ở nam giới. Một số dạng bệnh phát sinh ở tuyến này thường trị dễ dàng song số khác thì lại mang tính khắc nghiệt và có tốc độ phát tán cực nhanh. Ung thư tuyến tiền liệt đã làm chết khoảng 32.000 đàn ông vào năm 2010.
Ung thư máu: 108.740 người chết
Theo NCI, có nhiều dạng bệnh bạch cầu, nhưng tất cả trong số chúng đều ảnh hưởng tới các mô máu trong cơ thể như là tại xương ống và hệ bạch huyết, kết quả là gây ra sự khủng hoảng thừa các tế bào máu trắng bình thường gây ra căn bệnh ung thư bạch cầu. Các loại bệnh bạch cầu thường được xem xét ở hai khía cạnh là tốc độ hình thành và những loại tế bào nào đã ảnh hưởng. Từ năm 2003 đến năm 2007, một dạng bệnh bạch cầu cấp tính đã gây nên cái chết của khoảng 41.714 người. Gần 22.000 người đã bị thiệt mạng chỉ trong năm 2010.
U ác tính ở gan, lá lách: 104.407 người chết
Căn bệnh ung thư này gây ảnh hưởng đến các tế bào bạch huyết, một loại máu trắng, thể hiện rõ nhất là các khối u bướu bạch huyết, phát sốt và giảm cân. Theo NCI, có một vài loại bệnh ung thư trong đó bệnh ung thư tế bào bạch huyết là có mức độ tàn phá nặng nhất. Ước tính đã có khoảng hơn 20.000 người tử vong vì chứng bệnh này vào năm 2010.
Ung thư gan và ung thư ống mật: 79.773 người chết
Ung thư gan là một trong những dạng bệnh ung thư phổ biến nhất trên thế giới, nhưng lại không phổ biến tại Mỹ. Tuy nhiên tỷ lệ người mắc bệnh ung thư gan ở Mỹ đang có chiều hướng gia tăng. Một dạng bệnh gần nhất với bệnh ung thư gan là ung thư ống mật, chúng thường diễn ra ở ống dẫn mật từ gan đến ruột. Theo NCI, gần 19.000 người Mỹ đã bị chết vì căn bệnh ung thư gan và ung thư ống mật chỉ tính riêng trong năm 2010.
Ung thư buồng trứng: 73.638 người chết
Theo NCI, ung thư buồng trứng là căn bệnh ung thư gây tử vong đứng hàng thứ tư ở phụ nữ trong thời khoá 2003 và 2007. Độ tuổi trung bình ở phụ nữ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư buồng trứng là 63. Căn bệnh này khá dễ điều trị nhưng rất khó để phát hiện ra nó đặc biệt trong thời kỳ đầu, nhưng các cuộc nghiên cứu gần đây đã đưa đến những tia hy vọng mới trong việc chẩn đoán nó. Những hội chứng thường xảy ra đối với bệnh ung thư buồng trứng là cảm thấy khó chịu ở vùng bụng, đi tiểu khó khăn và đau ở vùng xương chậu. Cũng theo NCI, gần 14.000 phụ nữ đã qua đời do căn bệnh ung thư buồng trứng vào năm 2010.
 |
| Ung thư thực quản. |
Ung thư thực quản: 66.659 người chết
Căn bệnh ung thư này bắt nguồn từ những tế bào nằm ở thực quản (là ống dẫn thức ăn từ họng xuống dạ dày) và thường diễn ra ở vùng hạ của thực quản. Theo NCI, nam giới bị chết nhiều hơn nữ giới vì căn bệnh ung thư thực quản trong thời khoá 2003 và 2007. Chỉ tính riêng trong năm 2010 đã có khoảng 14.500 người chết vì căn bệnh này.
Gen gây bệnh béo phì là thủ phạm dẫn tới bệnh Alzheimer
Gen gây bệnh béo phì đã được xác định có tên gọi FTO - AA chính là nguyên nhân gây ra chứng bệnh béo phì ở nhiều người. Song một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu Karolinska - Thụỵ Điển cũng vừa công bố cho hay: FTO - AA cũng chính là nguyên nhân làm người bệnh gia tăng nguy cơ mắc bệnh Alzheimer cao hơn tới 58% so với người không mang gen này. Đối với những người có mang cả hai loại gen gây bệnh béo phì FTO - AA và gen qui định bệnh Alzheimer thông thường APOE4, tỉ lệ mắc bệnh của họ thậm chí còn cao gấp đôi người bình thường.
Nghiên cứu trên 1000 người cao tuổi để kiểm tra ảnh hưởng của gen đối với sức khoẻ của họ trong vòng 9 năm, các nhà khoa học Thụỵ Điển đã ghi nhận ở phần đông những trường hợp bị mắc Alzheimer có mang cả gen APOE4 và gen gây bệnh béo phì FTO- AA. Kết quả này đã được công bố tại hội thảo quốc tế về căn bệnh Alzheimer vừa diễn ra tại Hawaii mới đây.
Giải mã cơ chế hoạt động của châm cứu
Một nhóm các nhà khoa học thuộc Trường đại học Rochester Medical Center, Mỹ vừa trình bày một lý thuyết mới về cơ chế của châm cứu. Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature Neuroscience cho thấy, châm cứu hoạt động bằng cách kích hoạt các cảm thụ quan về sự đau đớn hay các phân tử trong khu vực của cơ thể nơi cây kim được châm vào.
Maiken Nedergaad và các đồng nghiệp đã châm những chiếc kim nhỏ vào các điểm tương đương với các huyệt ở người xung quanh khu vực gần đầu gối của chuột, đồng thời xoay những cây kim này liên tục như những nhà Đông y hay làm. Họ phát hiện những con chuột đã giảm hẳn các phản ứng về các cơn đau do viêm chân gây ra. Đồng thời cũng thúc đẩy mạnh mẽ sự tập trung mô cục bộ của chất truyền thần kinh hoặc một phân tử truyền tín hiệu thông qua dây thần kinh, được gọi là adenosine (C10H13N5O4). Các cảm thụ quan trọng nghiên cứu, được coi là các cảm thụ quan adenosine A1, nằm trên các sợi thần kinh truyền tín hiệu đau đớn, khi được kích hoạt, chúng sẽ làm giảm hoạt động của các sợi thần này. Việc sử dụng thêm những loại thuốc để hỗ trợ cho sự hoạt động của các cảm thụ quan A1 hoặc quá trình trao đổi chất adenosine có thể cải thiện lợi ích lâm sàng của châm cứu.
Ra đời thuốc chữa ung thư phổi mới
Trung tâm ung bướu Moores (UCSD) của Mỹ hiện đang thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 một loại thuốc chữa ung thư phổi mới có tên là Crizotinib do hãng Pfizer bào chế. Qua giai đoạn thử nghiệm 1 và 2 cho thấy Crizotinib có tác dụng tốt trong việc làm co ngót khối u. Đây là giai đoạn thử nghiệm cuối cùng trước khi loại thuốc này được đưa ra lưu hành. Kết quả thử nghiệm ở giai đoạn 1 và 2 cho thấy có 57% khối u co lại sau 8 tuần điều trị, 87% bệnh ổn định. Trong giai đoạn 3 người ta sẽ tiến hành thử nghiệm, so sánh Crizotinib với liệu pháp hóa trị liệu tiêu chuẩn, trong đó các bệnh nhân tham gia thử nghiệm sẽ dùng Crizotinib hoặc trị liệu (chemotherapy), nếu bệnh nhân không hợp với chemotherapy thì chuyển dùng Crizotinib. Những bệnh nhân tham gia thử nghiệm giai đoạn 3 nhất thiết đã trải qua một đợt chemotherapy và sau đó tiếp tục được thử nghiệm gen ALK.
Phát hiện gen gây đau nửa đầu
Lần đầu tiên, một nhóm nghiên cứu quốc tế đã tìm ra các gen được cho là liên quan tới chứng đau nửa đầu. Sau khi nghiên cứu trên 50.000 người bệnh, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra nguyên nhân bên trong của những đợt tấn công gây ra chứng đau nửa đầu, họ hy vọng sự hiểu biết mới này sẽ mở ra một cánh cửa mới cho việc tìm ra phương pháp điều trị và sản xuất thuốc ngăn ngừa mới. Kết quả cho thấy, sự tích lũy của một hóa chất được biết đến như là glutamate trong các kết nối tế bào thần kinh ở não có thể có một vai trò quan trọng trong việc gây ra các cuộc tấn công làm đau nửa đầu. Những bệnh nhân có biến thể AND đặc biệt trên bộ nhiễm sắc thể số 8 có nguy cơ phát triển chứng đau nửa đầu lớn hơn đáng kể.
"Đây là lần đầu tiên chúng ta có thể nghiên cứu kỹ hệ gen của rất nhiều người và tìm ra manh mối di truyền để hiểu được căn bệnh đau nửa đầu thông thường", TS. Aarno Palotie, Chủ tịch của Hiệp hội Quốc tế Nghiên cứu di truyền học của bệnh đau đầu, Viện Wellcome Trust Sanger nói, "Phát hiện này sẽ mở ra cánh cửa mới để chúng ta hiểu sâu hơn về những căn bệnh thông thường ở con người".
Chẩn đoán viêm màng não chỉ trong một giờ
Loại test mới sử dụng mẫu máu, nước bọt hoặc các loại chất tiết khác của cơ thể và có thể phát hiện ra tất cả các chủng vi khuẩn gây viêm màng não mô cầu nhanh hơn nhiều so với các testtruyền thống. Tuy nhiên, test này cũng đắt hơn nhiều và khó kiếm hơn. Thiết bị làm test tương tự như máy in, đang trong giai đoạn thử nghiệm tại Khoa A & E của Bệnh viện Nhi Hoàng gia Victoria ở Belfast (Anh). "Triệu chứng đầu tiên của viêm màng não mô cầu tương tự như những bệnh nhiễm virut đơn giản, khiến cho việc chẩn đoán trong giai đoạn đầu rất khó khăn" - GS. Mike Shields, Đại học Queens ở Belfast, lý giải: "Việc xác định nhanh chóng nguyên nhân gây bệnh có thể giúp các bác sĩ đưa ra những quyết định sống còn trong việc chữa cho bệnh nhân".
Viêm màng não mô cầu là căn bệnh đe dọa tính mạng, thường ảnh hưởng nhất đến trẻ nhỏ. Từ 5 - 10% bệnh nhân chết trong vòng 24 - 48 tiếng sau khi triệu chứng bắt đầu bộc lộ. Phát hiện sớm bệnh là yếu tố quyết định đến việc ngăn ngừa những tác hại nguy hiểm như tổn thương não, mất khả năng nghe và chậm phát triển trí tuệ.
Phát hiện chất có khả năng thay thế kháng sinh
Các nhà nghiên cứu thuộc Trường ĐH Washington (Seattle, Mỹ) vừa phát hiện chất có khả năng tiêu diệt vi khuẩn, để thay thế cho thuốc kháng sinh thông thường có tên Gali. Khi sử dụng Gali, chất có thành phần cấu trúc hóa học gần giống như sắt, vốn là nguyên liệu quan trọng cho sự phát triển của trực khuẩn mủ xanh (Pseudomonas Aeruginosa) loại vi khuẩn thường gây nhiễm trùng cơ hội tại các bệnh viện. Gali sẽ cạnh tranh với sắt, từ đó, ức chế sự sinh sôi và phát triển của vi khuẩn. Được biết, Gali không chỉ tiêu diệt hoàn toàn các vi khuẩn mà còn phá hủy cấu trúc màng sinh học giúp ngăn chặn tình trạng nhiễm khuẩn có nguy cơ chuyển thành mạn tính.
Da ếch sẽ được dùng làm kháng sinh
Các nhà nghiên cứu cho biết, da ếch là một trong những nguồn dược liệu quan trọng trong việc tạo ra một loại kháng sinh mới để chống lại vi khuẩn gây kháng thuốc của cơ thể. Trong tương lai không xa sẽ có hơn 100 chất diệt vi khuẩn gây kháng thuốc được chế tạo từ hơn 6.000 loài ếch. Một nhóm nghiên cứu ở trường Đại học United Arab Emirates đang nghiên cứu làm cho chúng ít độc hơn và thích hợp dùng làm thuốc cho người.
Dược liệu mà các nhà khoa học đã tìm thấy trong da ếch là một hợp chất có trong loài ếch châu Mỹ, một hy vọng mới trong việc tiêu diệt vi khuẩn kháng thuốc. Phát hiện ra loại thuốc làm từ da ếch diệt vi khuẩn, virus và những nhân tố gây ra các bệnh khác không phải là điều mới mẻ. Nhưng thật không dễ dàng chút nào khi những loại dược liệu này được áp dụng trên người, bởi chúng sẽ cản trở sự lưu thông máu hoặc gây độc cho các tế bào ở người. Sau khi đã xác định được nguồn dược liệu quý giá này, các nhà nghiên cứu lại tiếp tục tìm cách chuyển đổi các cấu trúc phân tử của chúng để tạo ra loại dược liệu ít gây nguy hiểm cho các tế bào ở người, nhưng chúng vẫn đảm bảo duy trì những tính năng diệt vi khuẩn của mình. Các chuyên gia hy vọng, quá trình chuyển hóa thành dược liệu quý cho người sẽ là một trong những thách thức thú vị trong y học và họ hy vọng công việc này sẽ hoàn thành trong vòng 5 năm. Họ cũng đang nghiên cứu giúp cho cơ thể con người có thể chống chọi với những tác dụng phụ có thể gặp phải trước khi liệu thuốc mới phát huy tác dụng của mình. BS. Michael Conlon, trưởng nhóm nghiên cứu cho rằng, da ếch là một nguồn dược liệu tuyệt vời đóng vai trò như một chất kháng sinh.
“Tổ tiên loài ếch đã có lịch sử hơn 300 triệu năm, vì thế chúng có nhiều thời gian để học cách chống lại các vi khuẩn gây bệnh trong môi trường sống. Môi trường sống của chúng là nơi có nguồn nước ô nhiễm, do đó yêu cầu về khả năng chống chọi với các loại vi khuẩn gây bệnh là một yêu cầu tất yếu để duy trì sự sinh tồn”, BS. Michael Conlon cho biết.
Thiết bị mới kiểm tra nhanh vi khuẩn gây bệnh
Các nhà khoa học Phần Lan và Mỹ vừa nghiên cứu thành công thiết bị mới kiểm tra nhanh và chính xác các chủng loại vi khuẩn gây bệnh, qua đó giúp giảm thiểu việc lạm dụng kháng sinh. Thiết bị kiểm tra này được vận hành bằng cách, các nhà khoa học sau khi đưa vi khuẩn gây bệnh vào thiết bị, vi khuẩn gây bệnh sẽ bám vào bề mặt các hạt từ tính chuyển động xoay tròn trong thiết bị. Những vi khuẩn khác nhau sẽ làm cho tốc độ xoay chuyển của các hạt từ tính biến đổi không giống nhau. Căn cứ vào đặc điểm này, các nhà khoa học có thể phán đoán chính xác chủng loại vi khuẩn gây bệnh, qua đó tạo cơ sở cho việc sử dụng chính xác kháng sinh.
Theo các nhà khoa học, thiết bị này giúp đơn giản hóa quá trình và rút ngắn thời gian xác định chủng loại vi khuẩn gây bệnh, hơn nữa do thể tích nhỏ, nó có thể sử dụng trong điều kiện môi trường tương đối khắc nghiệt.