Theo khái niệm ban đầu, kháng sinh là những tác nhân kháng vi khuẩn có nguồn gốc từ vi sinh vật với khả năng chống lại vi khuẩn hiệu quả ở nồng độ thấp. Sau đó, chúng được tổng hợp hóa học để có các loại kháng sinh mới nhằm điều trị bệnh nhiễm khuẩn. Việc sử dụng kháng sinh hiện nay khá phổ biến, đã bị lạm dụng, gây nên hiện tượng kháng thuốc và làm cho tác dụng điều trị hạn chế. Cộng đồng người dân cần quan tâm đến vấn đề này.
Vấn đề lạm dụng thuốc kháng sinh
Việc lạm dụng kháng sinh hiện nay xảy ra phổ biến do cả bệnh nhân và thầy thuốc cùng tham gia thực hiện để gây nên hiện trượng kháng thuốc sớm. Điều này đã mang lại những hậu quả xấu, làm cho việc đáp ứng điều trị kém hiệu quả, người bệnh không được chữa khỏi hoặc để bệnh kéo dài, ảnh hưởng đến sức khỏe kể cả tính mạng của bệnh nhân.
Bệnh nhân, người nhà người bệnh và nhiều người khác trong cộng đồng người dân thường quan niệm rằng thuốc kháng sinh có khả năng chữa được mọi thứ bệnh tật. Mỗi khi bị cảm cúm, đau đầu, sổ mũi, sốt, ho, viêm họng thông thường... đều đã dùng kháng sinh ngay để chữa trị. Mặc dù kháng sinh đã được Bộ Y tế quy định là loại thuốc cần phải có đơn kê của thầy thuốc, không ở trong các nhóm thuốc được bán không cần kê đơn (OTC) nhưng trên thực tế hiện nay việc mua bán kháng sinh rất dễ dàng. Nhiều hiệu thuốc, nhà thuốc, nhất là các cơ sở ở vùng ven đô thị, nông thôn... các loại kháng sinh đã được bán một cách rộng rãi, không cần đơn kê của thầy thuốc. Nhân viên hiệu thuốc, nhà thuốc cứ thoải mái bán kháng sinh theo yêu cầu của người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân với các loại thuốc mà họ thường quen sử dụng. Thậm chí có những trường hợp nhân viên ở hiệu thuốc, nhà thuốc thăm hỏi sơ qua triệu chứng bệnh lý, tư vấn và bán thuốc kháng sinh.
 |
Uống thuốc cần đúng liều lượng để không gây lờn thuốc kháng sinh ảnh minh họa |
Bộ Y tế đã chỉ đạo tất cả các hiệu thuốc, nhà thuốc trên toàn quốc phải tiến hành lộ trình thực hành tốt nhà thuốc (GPP) trong thời gian quy định để nâng cao vai trò của hiệu thuốc, nhà thuốc trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Khi các cơ sở đều thực hành tốt hiệu thuốc, nhà thuốc; tình trạng này sẽ được hạn chế. Nếu việc mua bán thuốc kháng sinh còn rất dễ dàng, việc tự mua thuốc, tự chữa bệnh còn khá phổ biến thì sự lạm dụng kháng sinh là điều không thể tránh khỏi. Trên thực tế, có nhiều người vì các lý do tế nhị khác nhau nên đã lựa chọn việc điều trị bằng thuốc kháng sinh tự mua hay tìm kháng sinh để sử dụng. Một số người khác lại nghe theo lời mách bảo của bạn bè, người thân dùng loại thuốc kháng sinh mà họ đã sử dụng theo kinh nghiệm mặc dù những người này chẳng biết gì về các loại bệnh tật và thuốc men. Cũng có những trường hợp người bệnh đến thầy thuốc khám bệnh, được kê đơn thuốc để mua kháng sinh nhưng dùng thuốc không đúng cách, không đủ liều lượng, đủ số lần trong ngày, đủ số ngày trong liệu trình điều trị; thậm chí chỉ sử dụng một vài thấy bệnh đỡ nên tự ý bỏ thuốc.
Thầy thuốc cũng là người đã góp phần trong việc lạm dụng thuốc kháng sinh vì trong thực tế thầy thuốc sử dụng kháng sinh khá rộng rãi. Nhiều trường hợp tuy biết rằng người bệnh không có chỉ định dùng thuốc kháng sinh nhưng thầy thuốc vẫn cứ kê đơn thuốc có kháng sinh vì việc chẩn đoán bệnh còn lưỡng lự, chưa rõ ràng, thiếu phương tiện chẩn đoán cận lâm sàng về vi sinh học... Mục đích của việc sử dụng kháng sinh, kể cả các loại kháng sinh có phổ rộng là để điều trị bao vây, bắn đạn xòa (shotgun treatment), một viên đạn trúng nhiều đích nhằm trừ hậu hoạn. Vấn đề tế nhị khác cũng cần được nêu ở đây có liên quan đến y đức là thầy thuốc kê đơn thuốc theo đòi hỏi, yêu cầu của người bệnh vì sợ mất thân chủ, mất khách hàng. Một tệ hại là hiện nay cùng với với sự phát triển của các phòng khám bệnh, bệnh viện tư nhân để xã hội hóa công tác y tế nhưng thiếu sự quản lý nhà nước chặt chẽ đã tạo những lỗ hổng cho việc thầy thuốc lạm dụng thuốc kháng sinh. Bên cạnh đó, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, không rõ ràng của các công ty, xí nghiệp sản xuất, nhập khẩu thuốc; giữa các nhà thuốc, hiệu thuốc nên xảy ra tình trạng vì lợi nhuận riêng mà thầy thuốc đã kê đơn thuốc có kháng sinh cùng với các loại thuốc khác tiêu thụ càng nhiều càng tốt để hưởng lợi từ những đơn thuốc đã kê và sẽ được thanh toán tiền hoa hồng trở lại do những đơn thuốc này. Cũng không ít các trường hợp thầy thuốc vừa kê đơn vừa bán thuốc với mục đích lợi nhuận mặc dù có những mâu thuẫn giữa kiến thức khoa học và lợi ích riêng của mình.
Thực tế cho thấy các nhà quản lý, các thầy thuốc đã được những nhà sản xuất, nhập khẩu thuốc tổ chức liên hoan, chiêu đãi, tặng quà, mời tham dự hội thảo giới thiệu sản phẩm, thậm chí mời đi tham quan ở các địa phương khác trong nước kể cả nước ngoài... với sự tài trợ chi phí toàn bộ nên một phần nào đó cũng làm ảnh hưởng đến việc mua thuốc, sử dụng thuốc, kê đơn để tiêu thụ các loại thuốc nói chung và thuốc kháng sinh nói riêng càng nhiều càng tốt. Vì vậy, kháng sinh đã được các thầy thuốc sử dụng khá rộng rãi, kê đơn thuốc dài ngày hoặc phối hợp nhiều loại thuốc với nhau. Dù biết rằng việc sử dụng kháng sinh không cần thiết đối với người bệnh nhưng thầy thuốc vẫn kê đơn thuốc có kháng sinh đã góp phần gây nên tình trạng lạm dụng thuốc kháng sinh từ thầy thuốc.
Hậu quả lạm dụng thuốc kháng sinh
Sự lạm dụng thuốc kháng sinh của người bệnh, người nhà bệnh nhân, kể cả thầy thuốc đã gây ra những hậu quả như lãng phí tiền của, làm cho người bệnh điều trị không khỏi bệnh, góp phần vào sự chẩn đoán bệnh bị chậm trễ, có thể gây nên tác dung độc hại và tăng khả năng kháng thuốc của vi khuẩn.
Những trường hợp bệnh nhân bị nhiễm bệnh không do vi khuẩn, nếu dùng kháng sinh sẽ không có tác dụng hiệu quả mà sẽ gây nên sự tốn kém, lãng phí về tài chính. Đành rằng việc sử dụng kháng sinh trong những trường hợp này có thể lý giải là giúp đề phòng sự bội nhiễm vi khuẩn nhưng khách quan mà nói chưa mang tính thuyết phục khoa học.
Nếu sử dụng kháng sinh không đúng chỉ định, ngoài sự tốn kém, gây lãng phí; nó còn làm cho người bệnh không thể chữa khỏi bệnh, kéo dài tình trạng bệnh lý, có thể bị ảnh hưởng đến sức khỏe, kể cả tính mạng.
Đối với những người bệnh chưa được chẩn đoán chính xác, nếu sử dụng kháng sinh sớm và không đúng chỉ định sẽ làm lu mờ các triệu chứng bệnh lý, gây khó khăn, trở ngại cho việc chẩn đoán bệnh, làm sai lệch chẩn đoán hoặc phát hiện, chẩn đoán bệnh muộn.
Kháng sinh cũng như các loại thuốc khác, ngoài tác dụng chữa bệnh, nó còn có những tác dụng không mong muốn và phản ứng phụ gây độc hại đối với người dùng. Vì vậy, chỉ sử dụng kháng sinh khi cần thiết và khi có chỉ định để chữa bệnh sau khi có chẩn đoán chính xác vì thuốc có thể gây phản ứng dị ứng, mẫm cảm, có khi bị sốc phản vệ rất nguy hiểm dễ dẫn đến tử vong. Một số loại kháng sinh cũng có tác dụng phụ nghiêm trọng như làm suy tủy, gây điếc, suy thận... nếu sử dụng liều cao hoặc kéo dài.
Một hậu quả khác cũng cần được quan tâm là việc lạm dụng kháng sinh sẽ làm cho vi khuẩn kháng thuốc điều trị, tác dụng chữa bệnh bị hạn chế, gây nên ảnh hưởng tai hại, rộng lớn, lâu dài cho cộng đồng người dân. Cơ chế vi khuẩn kháng thuốc do đột biến nhiễm sắc thể là cơ chế quan trọng làm phát sinh sự kháng thuốc của một biến chủng vi khuẩn. Một quần thể vi khuẩn có thể chứa những biến chủng đề kháng với một loại kháng sinh. Sự hiện diện của thuốc kháng sinh như vậy chỉ chọn lọc cho phép các chủng đề kháng sống sót. Vai trò của thuốc kháng sinh là một yếu tố chọn lọc biến chủng kháng thuốc. Khi có sự hiện diện của biến chủng vi khuẩn kháng thuốc thì biến chủng này có thể truyền tính kháng thuốc đến những vi khuẩn khác bằng nhiều cơ chế khác nhau như chuyển thể, chuyển nạp, giao phối và sẽ xảy ra hiện tượng lây lan tính kháng thuốc từ vi khuẩn này sang vi khuẩn khác. Vì vậy việc lạm dụng thuốc kháng sinh càng phổ biến sẽ tạo nên những nguy cơ và cơ hội chọn lọc càng nhiều biến chủng vi khuẩn kháng thuốc với khả năng lan rộng, làm cho công tác điều trị không đáp ứng.
Nguyên tắc sử dụng thuốc kháng sinh
Để ngăn ngừa và hạn chế hiện tượng vi khuẩn kháng lại với thuốc kháng sinh, một trong những hậu quả quan trọng đã được nêu ra ở trên. Việc sử dụng thuốc kháng sinh phải bảo đảm sự an toàn, hợp lý và nên tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản.
- Chỉ nên sử dụng thuốc kháng sinh khi đã xác định một cách chắc chắn người bệnh bị nhiễm vi khuẩn. Việc lựa chọn loại kháng sinh phải phù hợp và căn cứ vào các yếu tố như độ nhạy cảm của vi khuẩn gây bệnh đối với kháng sinh, vị trí bị nhiễm khuẩn và cơ địa đặc thù của từng bệnh nhân.
- Phải dùng thuốc kháng sinh đúng liều lượng quy định, đủ liều mỗi lần dùng và đủ số lần, số khoảng cách trong ngày theo chỉ định của thầy thuốc.
- Một điều cần nhớ là phải bảo đảm việc sử dụng thuốc kháng sinh đủ thời gian yêu cầu mặc dù triệu chứng bệnh lý đã khỏi trong những ngày đầu sau khi dùng thuốc. Không được tự ý bỏ thuốc nửa chừng mà cần tuân theo đủ liệu trình điều trị.
- Nếu cần phối hợp nhiều loại thuốc kháng sinh, phải thận trọng và chỉ sử dụng khi thật cần thiết. Nên nhớ rằng việc phối hợp các loại thuốc kháng sinh nhằm bảo đảm một số mục đích như làm giảm khả năng xuất hiện chủng vi khuẩn đề kháng thuốc, điều trị các trường hợp nhiễm vi khuẩn hỗn hợp và để tăng khả năng diệt vi khuẩn.
- Khi cần sử dụng kháng sinh để phòng ngừa một số loại bệnh trong cộng đồng theo phương pháp dự phòng bằng thuốc, cần cân nhắc kỹ càng, thận trọng và dùng thuốc phải bảo đảm sự hợp lý.
Kiểm soát hiện tượng kháng thuốc kháng sinh
Đứng trước thực trạng tình hình việc lạm dụng thuốc kháng sinh ngày càng phổ biến, lan rộng trong cộng đồng do nguyên nhân từ người bệnh, người nhà bệnh nhân, kể cả thầy thuốc đã gây nên hậu quả xuất hiện hiện tượng vi khuẩn gây bệnh kháng lại với thuốc kháng sinh; một vấn đề khó khăn trong chuyên môn kỹ thuật điều trị. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã có khuyến cáo và đề ra kế hoạch kiểm soát sự đề kháng của vi khuẩn đối với thuốc kháng sinh trên phạm vi toàn cầu để chủ động ngăn ngừa tình trạng này phát triển.
- Cần truyền thông giáo dục sức khỏe cho người bệnh, người nhà bệnh nhân về việc khám chữa bệnh, dùng thuốc theo chỉ định, hướng dẫn của thầy thuốc. Phải sử dụng thuốc kháng sinh đúng cách, đúng liều lượng, đủ liệu trình điều trị. Không yêu cầu thầy thuốc kê đơn thuốc kháng sinh theo ý kiến riêng của mình, không nên tự chữa bệnh, tự dùng thuốc.
- Thầy thuốc cần dành thời gian để giải thích cho người bệnh, người nhà bệnh nhân về chỉ định của thuốc kháng sinh và cách dùng thuốc đúng quy định. Cập nhật các thông tin, kiến thức y học cần thiết về các bệnh nhiễm trùng từ những loại vi khuẩn phổ biến lưu hành tại địa phương cũng như trong nước và trên thế giới. Thầy thuốc nên thẳng thắn, tế nhị, từ chối việc kê đơn thuốc theo yêu cầu của người bệnh, người nhà bệnh nhân.
- Tiến hành thực hiện chức năng, nhiệm vụ rõ ràng giữa ngành y và ngành dược. Thầy thuốc không được vừa kê đơn vừa bán thuốc cho bệnh nhân. Các nhân viên nhà thuốc, hiệu thuốc không được thay thầy thuốc tư vấn, chỉ định việc sử dụng thuốc và bán thuốc; cần chấp hành quy định phải có đơn của thầy thuốc mới được bán thuốc kháng sinh.
- Các nhà sản xuất thuốc phải tôn trọng những quy định về quảng cáo với mục đích bảo vệ sức khỏe và tính mạng của người bệnh. Nội dung quảng cáo cần nên phù hợp, giúp cho bệnh nhân sử dụng thuốc đúng, có lợi ích cho người bệnh và ngành y tế.
- Ngành dược cần bảo đảm việc cung cấp đầy đủ các loại thuốc thiết yếu. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, quản lý nhà nước để ngăn ngừa sự lưu hành của các loại thuốc giả. Hiện nay có khảng 5% số lượng thuốc lưu hành tại các nước đang phát triển là thuốc giả, không bảo đảm chất lượng, hàm lượng, thậm chí không có cả hoạt chất.
- Phòng xét nghiệm của các cơ sở điều trị phải tăng cường khả năng chất lượng chẩn đoán các bệnh nhiễm trùng, giúp cho việc chẩn đoán nhanh chóng và chính xác. Nếu có điều kiện, nên thực hiện kỹ thuật đánh giá độ nhạy cảm của kháng sinh, đo nồng độ của kháng sinh ở trong máu người bệnh.
- Các bệnh viện cần tổ chức bộ phận phụ trách về dịch tễ, đề phòng sự lây lan của vi khuẩn, theo dõi việc áp dụng những phương pháp vô trùng và khử trùng các dụng cụ, trang thiết bị y tế. Ngoài ra cũng cần theo dõi tình hình dịch bệnh đang phát triển tại địa phương, việc sử dụng kháng sinh trong bệnh viện. Phải xây dựng danh mục các loại thuốc thiết yếu và phác đồ hướng dẫn điều trị một cách cụ thể.
- Những cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho ngành y tế cần giảng dạy cho sinh viên, học sinh đầy đủ về các bệnh nhiễm trùng, cách sử dụng các loại thuốc kháng sinh và sự đề kháng của vi khuẩn đối với kháng sinh.
- Nếu có điều kiện cho phép, nên tăng cường việc chủng ngừa các loại bệnh nhiễm trùng phổ biến tại địa phương để chủ động bảo vệ phòng bệnh.
- Trong tiến trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước, phải cân nhắc, xem xét và hạn chế việc sử dụng các loại kháng sinh trong nông nghiệp. Nếu chủ động ngăn ngừa được sự phát triển của các chủng loại vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh sẽ bảo vệ được môi trường sống một cách an lành, duy trì được tính hiệu quả của các loại kháng sinh, hạn chế những chi phí tốn kém về y tế và điều trị đáp ứng có hiệu các bệnh nhiễm trùng; bảo vệ được sức khỏe kể cả tính mạng của người bệnh.