Hiện nay ung thư cổ tử cung là mối hiểm họa làm ảnh hưởng đến sức khỏe kể cả tính mạng của người phụ nữ. Phần lớn các trường hợp bị ung thư cổ tử cung của phụ nữ trên toàn cầu đã được nghiên cứu và đưa ra bằng chứng dịch tễ khẳng định bệnh do tình trạng nhiễm dai dẵng với các chủng virus gây ung thư. Virus gây bệnh ung thư cổ tử cung ở người có tên gọi là Human Papillomavirus, được viết tắt là HPV.
Đặc điểm bệnh ung thư cổ tử cung
Kết quả nghiên cứu lâm sàng đã xác định ung thư cổ tử cung là loại ung thư thường gặp ở phụ nữ, bệnh đứng hàng thứ hai trên thế giới sau bệnh ung thư vú. Theo các nghiên cứu ung thư tại Việt Nam, trong các loại bệnh ung thư ở phụ nữ, ung thư cổ tử cung đứng hàng thứ hai sau ung thư vú tại Hà Nội và đứng hàng đầu tại Thành Phố Hồ Chí Minh. Như vậy, ung thư cổ tử cung có tỷ lệ mắc bệnh cao, đồng thời tỷ lệ tử vong cũng cao khi phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn. Ung thư cổ tử cung thường gặp ở phụ nữ từ 30-59 tuổi, đỉnh cao là từ 48-52 tuổi. Các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho ung thư cổ tử cung phát triển là phụ nữ sinh đẻ nhiều, bị viêm cổ tử cung mãn tính, lấy chồng sớm, có nhiều bạn tình...
 |
Hút thuốc lá là một trong những nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung ở phụ nữ. Ảnh: rolledtootight.com |
Nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung là do loại virus có tên là Human Papillomavirus, viết tắt là HPV. Virus này thường gây nhiễm ở phụ nữ có độ tuổi từ 30 đến 60 đã qua quan hệ tình dục. Các xét nghiệm gần đây, cho thấy, virus HPV có mặt trong 99,7% các trường hợp ung thư cổ tử cung. Virus này có khoảng 150 chủng khác nhau, trong đó khoảng 40 chủng lây truyền qua đường tình dục và có thể gây nên tổn thương ở âm hộ, âm đạo, cổ tử cung, thậm chí cả dương vật … Đặc biệt, chủng 16 và 18 là thủ phạm gây bệnh ung thư cổ tử cung. Virus HPV gây ung thư cổ tử cung dễ bị lây nhiễm hơn cả virus HIV gây bệnh AIDS vì ngoài lây truyền qua đường tình dục, virus HPV có thể nhiễm trực tiếp qua da trong những trường hợp dùng chung quần áo và dụng cụ cắt móng tay, móng chân … Tại Viêt Nam, theo thống kê mỗi ngày có khoảng 17 người phụ nữ được chẩn đoán bị ung thư cổ tử cung và 9 người chết vì căn bệnh này.
|
Các giai đoạn phát triển ung thư cổ tử cung |
Phòng ngừa bệnh bằng vaccine
Do ung thư cổ tử vong có tỷ lệ mắc và chết cao nếu phát hiện muộn, điều trị không đáp ứng. Vì vậy các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công loại vaccine phòng ung thư cổ tử cung cho phụ nữ dễ có nguy cơ bị nhiễm bệnh. Hãng GlaxoSmithKline Biologicals s.a. của Vương quốc Bỉ (Belgium) đã sản xuất sản phẩm từ thành tựu nghiên cứu và giới thiệu loại vaccine phòng bệnh ung thư cổ tử cung với tên thương hiệu là Cervarix đang được phép sử dụng. Cervarix là loại vaccine Papillomavirus ở người chủng 16 và 18, tái tổ hợp, chất hỗ trợ ASO4 (Human Papillomavirus vaccine type 16 and 18. Recombinant, ASO4 adjuvanted)
Vaccin Cervarix bào chế dưới dạng huyền dịch để tiêm, được chỉ định dùng cho giới nữ từ 10 tuổi trở lên đến 25 tuổi để phòng ngừa ung thư cổ tử cung bao gồm ung thư tế bào vảy và ung thư biểu mô tuyến bằng cách bảo vệ chống lại tình trạng nhiễm mới và nhiễm dai dẵng; các bất thường về tế bào gồm các tế bào vảy không điển hình được xác định có khả năng gây ung thư, khối u nội biểu mô cổ tử cung và tổn thương tiền ung thưgây ra bởi Papillomavirus ở người (HPV) gây ung thư cổ tử cung. Ngoài ra, vaccine cũng được đánh giá là có hiệu quả bảo vệ chống lại các bệnh nhiễm trùng dai dẵng gây ra bởi HPV của các chủng gây ung thư khác ngoài chủng HPV-16 và HPV-18.
Vaccine sử dụng theo liệu trình tiêm chủng cơ bản bao gồm 3 mũi tiêm và được khuyến cáo dùng 0,5 ml trong 1 liều tiêm chủng (sản phẩm đã đóng sẵn một liều 0,5 ml). Dùng liều thứ hai sau liều thứ nhất 1 tháng và liều thứ ba sau liều thứ nhất 6 tháng. Nếu vì một lý do nào đó, việc linh động trong quá trình tiêm chủng là cần thiết thì liều thứ hai có thể được tiêm vào khoảng giữa sau 1 tháng và 2 tháng rưởi sau mũi tiêm thứ nhất. Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy khả năng bảo vệ của vaccine kéo dài ít nhất là 5 năm sau tiêm chủng cơ bản. Vaccine được bán theo đơn kê của bác sĩ, phải tiêm vào bắp thịt vùng cơ delta, không được tiêm vào trong da hoặc tĩnh mạch và lẽ dĩ nhiên cần được thực hiện tiêm tại các cơ sở y tế.
Cũng như các loại vaccine khác, không sử dụng vaccine Cervarix ở những người đang sốt cao cấp tính. Tuy nhiên khi có triệu chứng nhiễm khuẩn nhẹ như bị cảm thông thường thì không cần chống chỉ định. Cần hỏi kỹ tiền sử y khoa nhất là việc tiêm chủng các loại vaccine trước đó, khả năng xuất hiện các tác dụng không mong muốn. Kiểm tra lâm sàng cũng cần thiết và nên có sẵn các phương tiện theo dõi và xử trí điều trị thích hợp để đề phòng hiện tượng sốc phản vệ xuất hiện sau khi tiêm chủng mặc dù trường hợp này rất hiếm gặp. Thận trọng ở những người giảm tiểu cầu hoặc có rối loạn đông máu vì có thể xuất hiện sự chảy máu sau khi tiên bắp thịt. Sự đáp ứng miễn dịch bảo vệ có thể không được tạo ra ở toàn bộ các đối tượng được tiêm chủng vì vaccine Cervarix cũng chỉ là một loại vaccine dự phòng. Nó không phòng chống được các tổn thương có liên quan đến HPV đã hiện diện ngay tại thời điểm tiêm vaccine. Một điều cũng cần nên hiểu rõ, không phải tất cả ung thư cổ tử cung đều do chủng HPV-16 và chủng HPV-18 gây ra mà các chủng HPV khác cũng có thể gây ung thư cổ tử cung. Việc tiêm chủng vaccine này không phòng ngừa được nhiễm HPV và các biểu hiện lâm sàng liên quan khác do các chủng gây ung thư không phải là chủng HPV-16 và HPV-18. Tiêm chủng là phương pháp phòng ngừa ban đầu, nó không thể thay thế cho phương pháp sàng lọc định kỳ, còn gọi là phương pháp phòng ngừa thứ phát hoặc phòng ngừa phơi nhiễm HPV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục khác. Đối với những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch như nhiễm HIV/AIDS hoặc đang điều trị các loại thuốc ức chế miễn dịch thì có thể không đạt được đáp ứng miễn dịch mong muốn sau khi tiêm chủng.
Phương pháp phòng ngừa thứ phát là phương pháp sàng lọc định kỳ cũng được khuyến cáo thực hiện để phát hiện sớm ung thư cổ tử cung mặc dù đã sử dụng vaccine phòng ngừa ban đầu. Xét nghiệm phết tế bào cổ tử cung là một thử nghiệm dùng để tầm soát ung thư cổ tử cung khá đơn giản, có độ nhạy và độ đặc hiệu cũng tương đối cao, giá thành rẻ, ít gây khó chịu hay bất tiện, ít gây sự xâm lấn. Soi cổ tử cung và sinh thiết cổ tử cung là những xét nghiệm tiếp theo dùng để chẩn đoán sớm khi kết quả phết tế bào cổ tử cung phát hiện sự bất thường.