Quinine là một loại thuốc cổ điển và truyền thống đã sử dụng từ rất lâu để điều trị bệnh sốt rét. Mặc dù vậy nhưng cho đến nay, Quinine vẫn là một loại thuốc được khẳngđịnh có giá trị và hiệu lực tốt trong điều trị bệnh. Có thể nói Quinine là một loại thuốc sốt rét rất lợi hại.
Nhìn lại quá khứ
Vào thế kỷ thứ 17, người châu Âu đã khai thác và sử dụng cây Cinchona, còn gọi là cây sốt (fever trees) mọc ở sườn núi Péru để chữa bệnh sốt rét thì việc nghiên cứu về mặt hóa học của cây thuốc mới thực sự được bắt đầu. Năm 1810, A. Gomez (Bồ Đào Nha) và I. Gize (Nga) thu được tinh thể quinine. Bốn năm sau đó, P. Pelletier và J. Caventou phân lập được alcaloide của vỏ cây Cinchona, tạo thuận lợi cho việc chiết xuất quinine ở nhiều nước trên thế giới. Mặc dù vậy nhưng quinine không đáp ứng đủ nhu cầu, nhất là trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Vấn đề này bắt buộc các nhà khoa học của nhiều nước tập trung nghiên cứu tổng hợp thuốc. Thành công này đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lịch sử hóa học trị liệu sốt rét.
Vỏ cây Cinchona còn được gọi là quinquina có chứa hơn 20 loại alcaloide nhưng quan trọng nhất là quinine, quinidine, cinchonine và cinchonidine. Quinine hấp thu nhanh và hoàn toàn qua ruột gần đến 95%, đạt đậm độ trong huyết tương tối đa sau 1 đến 3 giờ; thời gian bán thải từ 11 đến 18 giờ; 80% thuốc được chuyển hóa ở gan và thải theo mật, phân; 20% thải qua nước tiểu. Thuốc được chỉ định điều trị sốt rét với khả năng diệt mạnh thể vô tính trong hồng cầu, nhất là đối với loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum. Nó còn có thể diệt được thể giao bào non của Plasmodium vivax và Plasmodium malariae trong máu nhưng không có khả năng diệt được thể giao bào của Plasmodium falciparum và không có tác dụng đối với thể ẩn của ký sinh trùng ở trong gan. Quinine thường được sử dụng trong các vùng sốt rét lưu hành có loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum kháng lại với thuốc sốt rét thông thường như chloroquine, nó cũng được sử dụng để điều trị các trường hợp sốt rét ác tính.
|
Công thức hóa học của Quinine (ảnh sưu tầm)
|
Tác dụng lợi hại
Mặc dù quinine sử dụng từ rất lâu để điều trị bệnh sốt rét nhưng cho đến nay nó vẫn được xem là một loại thuốc sốt rét lợi hại vì đã khẳng định được giá trị với tác dụng có hiệu quả tốt trong điều trị. Sau khi thuốc artemisinine (Qinghaosu) và các dẫn chất của nó được chiết xuất từ cây Thanh hao hoa vàng hiện diện từ năm 1972, thuốc quinine đã tạm thời đi vào quá khứ một thời gian để nhường lại vai trò cho một loại thuốc mới với những ưu điểm là có tác dụng tốt đối với các trường hợp sốt rét do Plasmodium falciparum kháng thuốc, các trường hợp sốt rét nặng, sốt rét ác tính. Tuy vậy, khi dùng artemisinine hoặc các dẫn chất của nó như dihydroartemisinine, artemether, arteether, natri artesunate đơn thuần thì ký sinh trùng sốt rét đã có khả năng tăng sức chịu đựng và trở nên kháng thuốc điều trị. Đứng trước thực trạng này, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến cáo không nên dùng loại thuốc này đơn thuần mà phải sử dụng một loại thuốc phối hợp có dẫn chất artemisinine, thuật ngữ thường gọi là thuốc ACT (artemisinine base combination therapy) như dihydroartemisinine kết hợp piperaquine, thuốc có tên biệt dược là Arterakine, CV Artecan hoặc Artekin.
Trong hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh sốt rét được Bộ Y tế ban hành vào cuối năm 2009 quy định về việc sử dụng thuốc điều trị phối hợp dihydroartemisinine-piperaquine để điều trị sốt rét do bị nhiễm Plasmodium falciparum một cách cụ thể. Tuy vậy, vai trò của quinine cũng không thể bỏ qua và đã được khẳng định. Khi điều trị sốt rét do Plasmodium falciparum bằng thuốc điều trị ưu tiên (first line) là dihydroartemisinine-piperaquine (tên biệt dược Arterakine hoặc CV Artecan) bị thất bại thì có thể sử dụng thuốc điều trị thay thế (second line), trong đó thuốc quinine được chỉ định dùng phối hợp với thuốc doxycycline hoặc clindamycine. Quinine phối hợp với doxycycline sử dụng cho người lớn và trẻ em từ 8 tuổi trở lên. Quinine phối hợp với clindamycine sử dụng cho phụ nữ có thai và trẻ em dưới 8 tuổi. Vị trí của thuốc quinine đã được coi trọng trong hướng dẫn điều trị mới.
Trong điều trị đặc hiệu sốt rét ác tính, ngoài việc sử dụng thuốc artesunate tiêm; vai trò của thuốc quinine dihydrochloride tiêm đã được xác định thay thế nếu không có thuốc artesunate tiêm. Ngoài ra, quinine cũng đã được chỉ định sử dụng để điều trị cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu bị sốt rét thể thông thường hoặc sốt rét ác tính mà đối tượng này đã được chống chỉ định dùng thuốc dihydroartemisinine-piperaquine viên hoặc artesunate tiêm. Quinine đã đảm nhận một vị trí thay thế trong điều kiện cần thiết.
Một số nhược điểm
Ngoài những ưu điểm mà thuốc quinine đã khẳng định, bên cạnh đó thuốc cũng có những nhược điểm hoặc các tác dụng không mong muốn. Nếu uống, thuốc có thể gây kích ứng tại chỗ ở dạ dày gây buồn nôn hoặc nôn. Nếu tiêm dưới da sẽ rất đau và có thể gây bên áp xe vô khuẩn; vì vậy phải tiêm bắp sâu vào mông. Khi tiêm tĩnh mạch với liều cao sẽ làm giãn mạch, ức chế cơ tim, hạ huyết áp nếu tiêm tĩnh mạch nhanh. Ngoài ra, thuốc cũng còn có tác dụng lên cơ trơn làm tăng sự co bóp tử cung đều đặn trong những tháng cuối của thời kỳ có thai; lúc mới có thai hoặc lúc bình thường thì tác dụng này rất yếu.
Khi sử dụng quinine để điều trị bệnh sốt rét, một số trường hợp có thể bị tai biến xảy ra như bị hội chứng quinine, gọi là cinchonism; giống như khi dùng các loại thuốc salicylate gây ù tai, nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, nôn... Số ít trường hợp có phản ứng đặc biệt mặc dù dùng liều thấp như bị đỏ da, ngứa, phát ban, sốt, đau dạ dày, khó thở, ù tai, rối loạn thị giác. Nếu sử dụng quá liều hoặc dùng lâu dài sẽ gây nên sốt, nôn, bị kích thích, lo sợ, nhầm lẫn, mê sảng, ngất, trụy hô hấp, da lạnh, tím xanh, giảm thân nhiệt, hạ huyết áp, mạch yếu; ảnh hưởng thính giác làm ù tai, chóng mặt, có khi bị điếc. Ngoài ra cũng có thể bị giảm thị lực như nhìn mờ, rối loạn màu sắc, nhìn đôi, sợ ánh sáng, không nhìn rõ trong bóng tối, giảm thị trường mắt, giãn đồng tử...
Với một số nhược điểm và tác dụng không mong muốn này, quinine được chống chỉ định sử sụng cho những người bệnh có phản ứng đặc biệt với thuốc; những người có tình trạng bệnh lý về tai , mắt, tim mạch... Khi dùng đường tiêm bắp, quinine dễ gây áp xe nên cần tiêm bắp sâu ở mông và bảo đảm vô trùng. Nếu tiêm truyền tĩnh mạch, chú ý không được tiêm truyền với tốc độ nhanh vì dễ bị hạ đường huyết và trụy tm mạch, thường truyền khoảng 40 giọt/phút. Đối với phụ nữ có thai mắc sốt rét, dùng quinine để điều trị dễ bị hạ đường huyết, vì vậy nên truyền với qlucose 10% và theo dõi glucose máu.
Quinine là một loại thuốc sốt rét cổ điển, truyền thống, có tác dụng hiệu quả trong điều trị bệnh sốt rét; mặc dù đã sử dụng từ rất lâu nhưng nó vẫn còn có giá trị cho đến ngày nay. Bên cạnh các nhược điểm được nêu, những ưu điểm của thuốc quinine vẫn được tiếp tục khai thác để hỗ trợ cho việc điều trị bệnh sốt rét hiện tại cùng với các loại thuốc mới được phát minh. Có thể nói quinine là một loại thuốc sốt rét rất lợi hại.