Trong thực hành lâm sàng và điều trị bệnh nội khoa và bệnh chuyên khoa ký sinh trùng ở người và bệnh ký sinh trùng và bệnh do đơn bào truyền từ động vật sang người, chúng tôi hàng ngày gặp phải những tờ “đơn thuốc” tự biên và tự diễn của một số bệnh nhân và thân nhân của họ sao chép từ một bệnh nhân khác đã được chẩn đoán điều trị bệnh giun sán từ trước. Việc sai lầm ở đây, chính là họ nghe mách bảo về các triệu chứng của bệnh nhân “sao mà giống” với triệu chứng mình đang có, thế là họ tự mượn đơn thuốc của người khác và sao chép nguyên bản đơn thuốc ra quầy thuốc tây để mua (thường gồm 4-5 loại thuốc), và người đúng bán tại quầy có thể là “dược sĩ” có thể là “không có chuyên môn dược”vẫn bán thuốc “theo đơn” mà không cần suy tính vấn đề hậu quả, ngay cả đe dọa tính mạng và tử vong đến người bệnh (!). Ở đây, chúng ta nên để cập đến 2 khía cạnh:
[1] Việc bán thuốc cần phải có đơn bác sĩ và cần phải có sự quản lý đơn thuốc khi mua bán dược phẩm, nhất là hiện nay chúng ta đang tiến tới đạt Thực hành nhà thuốc tốt (GPPs_Good Pharmacy Practices), chúng ta cũng nên biết thuốc cần phải có đơn bác sĩ (Prescription) và thuốc không cần đơn bác sĩ (OTC_Over the counter) chứ không nên mua bán như hiện nay tại một số quầy thuốc;
[2] Mọi người, kể cả người bệnh không nên xem triệu chứng của mình na ná hoặc giống với của một bệnh nhân trước đó, để rồi tự chẩn đoán và tự điều trị cho chính mình, trong khi đó chưa lường hết hậu họa đằng sau sự dùng thuốc tự ý và không quản lý, không kiểm soát này. Thậm chí có nhiều người vô tư đến mức, đi đến xét nghiệm tổng quát xem thử có mắc bệnh gì không, sau đó nhờ người khác đến nhận kết quả, chờ bác sĩ ra đơnrồi đi mua thuốc giúp cho bệnh nhân, sau đó bệnh nhân cứ uống thuốc theo đơn.
Sử dụng thuốc hợp lý: Một vấn đề toàn cầu quan trọng
Sử dụng thuốc không hợp lý (Irrational use of medicines) là một vấn đề nghiêm trọng trên toàn cầu. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) ước tính hơn một nửa các loại thuốc được kê toa, phân phát và bán không hợp lý và một nửa số bệnh nhân đã dùng chúng sai. Việc sử dụng quá mức, dùng dưới mức hoặc dùng thuốc nhầm lẫn (overuse - underuse - misuse of medicines) dẫn đến lãng phí thuốc những nguồn thuốc khó kiếm được và có nhiều nguy hiểm cho sức khỏe. Một số ví dụ về sử dụng thuốc không hợp lý gồm: sử dụng quá nhiều thuốc cho một bệnh nhân ("poly-pharmacy"); sử dụng không hợp lý thuốc chống vi trùng, thường liều không đầy đủ cho các bệnh nhiễm khuẩn; sử dụng quá mức thuốc tiêm khi thuốc dùng đường uống lại phù hợp hơn trong những tình huống như thế; thất bại trong kê đơn theo hướng dẫn về mặt lâm sàng; tự dùng thuốc không phù hợp, thường chỉ những thuốc kê đơn, không phù hợp về liều dùng.
Chúng ta nên biết rằng đâu phải xét nghiệm nào bất thường cũng đều phải uống thuốc, ddooi khi việc điều trị mà chỉ cần ăn uống kiêng cữ hoặc có chế độ tiết thực nghỉ ngơi, thay đổi lối sống là cũng có thể cải thiện được tình trạng sức khỏe (một số bệnh tâm lý, tình trạng bilan lipid máu cao, ngi ngờ cao huyết áp, men gan tăng do uống bia rượu,…). Điều này có nghĩa, nếu có bất cứ thông số xét nghiệm nào bất thường đều phải kê đơn thuốc là việc không nên. Do vậy, việc dùng thuốc và trước khi dùng một thuốc nào đó, chúng ta cũng nên tìm hiểu xem thuốc đó một cách kỹ càng (về thành phần thuốc, chỉ định dùng trong trường hợ nào, không được dùng trong trường hợp nào, cách bảo quản thuốc, liều dùng, thận trọng, mối tương tác thuốc này với thuốc khác,…). Nhân đây, chúng tôi muốn chia sẻ từ một bài viết của tác giả là PGS.TS. Nguyễn Hữu Đứcđưa ra giúp chúng ta về 8 điều cần biết một loại thuốc trước khi sử dụng:
8 điều cần biết một loại thuốc trước khi sử dụng
1. Thành phần:
Ghi tên hoạt chất và các tá dược. Thí dụ thuốc có tên biệt dược là zentel hoặc albendazol trong thành phần ghi hoạt chất chính là albendazole là thuốc trị giun sán và thêm khá nhiều tá dược để tạo thành thuốc viên nén. Ta cần biết tên hoạt chất vì đây chính là tên thuốc dùng cho việc điều trị. Nhiều người cao tuổi tự ý dùng nhiều loại biệt dược khác nhau, tưởng là các loại thuốc khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một loại hoạt chất đưa đến ngộ độc vì dùng quá liều (ở nước ngoài thường xảy ra vụ người già ngộ độc Paracetamol).
2. Chỉ định:
Là phần ghi những trường hợp dùng thuốc. Có thể ghi trường hợp bệnh (điều trị cơn cao huyết áp) hoặc ghi trị tác nhân bệnh (trị giun đũa, giun kim, giun móc) hoặc dùng để dự phòng (dự phòng cơn đau thắt ngực). Ta cần đọc phần này để xem thuốc có phù hợp với bệnh đang được điều trị hay không.
3. Cách dùng - Liều dùng:
Ghi cách dùng thuốc như thế nào như: ngậm dưới lưỡi, uống hoặc tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch... Còn liều được ghi: liều dùng cho 1 lần, liều trong 24 giờ (tức trong một ngày). Liều cho một đợt điều trị. Thí dụ: Thuốc được ghi: 500 mg x 3 lần/ngày, trong 10 ngày, có nghĩa là mỗi lần dùng 500 mg thuốc (thường là uống 1 viên chứa 500 mg hoạt chất), dùng 3 lần trong ngày, dùng trong 10 ngày liên tiếp.
4. Chống chỉ định:
Phải hiểu là “chống chỉ định tuyệt đối”, tức là không vì lý do nào đó được linh động dùng thuốc. Thí dụ: Thuốc được ghi chống chỉ định đối với trẻ dưới 15 tuổi, ta phải tuyệt đối theo đúng điều này, đừng vì thấy trẻ 13 - 14 tuổi lớn con, có vẻ già dặn ta lại cho dùng thuốc.
5. Lưu ý - Thận trọng:
Có thể được xem là “chống chỉ định tương đối” nghĩa là có những trường hợp không được dùng thuốc nhưng không cấm hoàn toàn. Thí dụ, thuốc ghi: “Người lái xe hay vận hành máy móc cần thận trọng khi sử dụng thuốc do thuốc có thể gây buồn ngủ ngầy ngật”, ta nên hiểu người lái xe hay vận hành máy móc nếu phải làm việc nên tránh dùng thuốc, còn không làm việc vẫn có thể dùng. Hoặc thuốc ghi: “Thận trọng khi chỉ định cho trẻ dưới 2 tuổi”, có nghĩa là tốt nhất nên tránh dùng cho trẻ dưới 2 tuổi, nhưng vì sự cần thiết bác sĩ vẫn có thể chỉ định thuốc cho trẻ và theo dõi kỹ.
6. Tác dụng ngoại ý:
Là phần ghi những tác dụng không phải dùng trong điều trị, xảy ra ngoài ý muốn. Thí dụ: Một số thuốc dùng trong bệnh lý tim mạch uống vào là gây ho khan hoặc có thuốc làm cho phân có màu đen, làm nước tiểu có màu vàng, màu xanh, màu đỏ v.v... Một số tác dụng phụ của thuốc thường hay gặp: đau bụng vùng thượng vị, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, nhức đầu, chóng mặt... thường các tác dụng phụ này sẽ mất đi khi ngưng dùng thuốc.
7. Tương tác thuốc:
Là phần ghi thuốc sẽ dùng nếu dùng cùng lúc với một số thuốc khác sẽ bị các phản ứng bất lợi. Thí dụ aspirin nếu dùng chung với các thuốc giảm đau chống viêm giống như nó (được gọi là các thuốc chống viêm không steroid) sẽ đưa đến tương tác thuốc dễ làm tổn hại niêm mạc dạ dày (hại bao tử) hơn.
8. Hạn dùng:
Được ghi trên bao bì (nhãn thuốc, vĩ thuốc, lọ thuốc hoặc hộp giấy đựng lọ thuốc). Hạn dùng được định nghĩa là “khoảng thời gian sử dụng ấn định cho một lô thuốc (thuốc được sản xuất theo lô), sau thời hạn này thuốc đó không còn giá trị sử dụng”. Như vậy nếu đọc trên nhãn thuốc hoặc bao bì: H.D (hoặc exp): 30 tháng 6 năm 2004, có nghĩa là trong suốt thời gian từ lúc thuốc xuất xưởng đến hết ngày 30 tháng 6 năm 2004 thuốc có giá trị sử dụng đến ngày 1-7-2004 thuốc quá hạn dùng không còn giá trị, phải bỏ đi, không được sử dụng.
Tài liệu tham khảo
1.Nguyễn Hữu Đức (2010). 8 điều cần biết về một loại thuốc trước khi sử dụng
2.WHO. Rational Use of Medicines