Thuốc sốt rét và nguy cơ dị tật bẩm sinh
Một nghiên cứu mới đây cho thấy, phụ nữ mang thai dùng thuốc điều trị sốt rét Malaron trong thai kỳ đầu có thể không bị tăng nguy cơ dị tật bẩm sinh cho trẻ. Nghiên cứu mới này, được công bố trên Archives of Internal Medicine, là nghiên cứu đầu tiên xem xét việc dùng Malaron – tên thuốc gốc là atovaquone-proguanil - và nguy cơ dị tật bẩm sinh ở phụ nữ mang thai.
Trong nghiên cứu mới này, các tác giả đã theo dõi dữ liệu của gần 571.000 ca đẻ ở Đan Mạch trong khoảng các năm 2000-2008. Nhìn chung, cứ 100 trẻ sơ sinh thì có 2-3 trẻ bị dị tật bẩm sinh. Trong số 149 phụ nữ dùng Malaron tại một số thời điểm trong thai kỳ đầu, cứ 100 người thì chỉ có 1 người có con bị dị tật bẩm sinh. TS. Bjorn Pasternak thuộc Viện Statens Serum, Copenhagen, phụ trách nhóm nghiên cứu, cho rằng kết quả đảm bảo phần nào là thuốc không liên quan với bất kỳ nguy cơ dị tật bẩm sinh lớn nào.
Tuy nhiên, vì chỉ một số nhỏ phụ nữ trong nghiên cứu dùng Malaron trong thai kỳ đầu nên kết quả này không thể loại trừ hết khả năng vẫn có một số nguy cơ. Malaron là thuốc không đắt, với giá gần 200 đôla/24 viên. Số lượng thuốc một phụ nữ phải dùng phụ thuộc vào thời gian người đó sống trong vùng có bệnh.
Việt Nam lên kế hoạch uống thuốc phòng nhiễm phóng xạ
Ngày 12/4, PGS.TS Nguyễn Huy Nga, Cục trưởng Cục Quản lý môi trường y tế (Bộ Y tế) cho biết, đến nay, nước ta đang ở trong giai đoạn chưa bị ảnh hưởng bởi phóng xạ từ Nhật Bản. Tuy vậy, Bộ Y tế cũng đã xây dựng chương trình dự phòng cho người dân uống thuốc kali iốt để dự phòng nhiễm phóng xạ.
TS Nguyễn Huy Nga khuyến cáo, thuốc kali iốt là dược phẩm, nên người dân khi sử dụng phải có sự chỉ định của bác sĩ. Hiện Cục Quản lý Dược là đơn vị sẽ lo việc nhập cũng như dự trữ thuốc. Thời điểm này, chương trình dự phòng cho người dân uống thuốc kali iốt để dự phòng nhiễm phóng xạ mới là phương án nếu mức phóng xạ nguy hiểm, chưa phải là kế hoạch gần. Khi nào mức nguy hiểm báo động, Bộ Y tế sẽ có những kế hoạch cụ thể.
PGS.TS Mai Trọng Khoa, Phó giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, kiêm giám đốc Trung tâm Ung bướu, bệnh viện Bạch Mai, nói rõ thêm về tác dụng của việc dùng thuốc kali iốt: Thuốc này nhằm giảm thiểu nguy cơ ung thư tuyến giáp bằng cách chủ động đưa trước một lượng thuốc iốt vào cơ thể làm ngừng, hoặc không hấp thu iốt phóng xạ xâm nhập vào cơ thể và không có cơ hội tập trung vào tuyến giáp. Lượng iốt phóng xạ sẽ nhanh chóng bị đào thải qua nước tiểu.
Việt Nam có tỷ lệ lao đa kháng thuốc cao
Theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Việt Nam là quốc gia đứng thứ 14 trong 27 nước có tỷ lệ lao kháng đa thuốc cao với tỷ lệ 2,7%. Điều đáng lo ngại là chẩn đoán, điều trị lao kháng đa thuốc kéo dài và rất khó.
Nếu như quản lý một người bệnh lao bình thường chỉ mất 8 tháng thì để quản lý một người bệnh bị lao đa kháng thuốc phải mất 24 tháng. Thêm nữa, bệnh nhân bị lao đa kháng thuốc rất khó tiếp cận với thuốc điều trị đặc hiệu vì thuốc mới, chi phí quá cao.
Tại Bệnh viện Phổi Hà Nội, một trong 6 cơ sở đảm nhận việc phát hiện, thu dung, quản lý và điều trị bệnh lao kháng đa thuốc trên cả nước, hiện cơ số thuốc được tài trợ chỉ có 8 suất, còn rất nhiều bệnh nhân lao kháng thuốc khác vẫn phải chờ vì chưa có thuốc điều trị.
Trong khi đó, theo ông Đinh Ngọc Sỹ, Giám đốc BV Phổi T.Ư, hầu hết các trường hợp lao kháng thuốc đều do không tuân thủ đúng quy tắc điều trị, không dùng thuốc đủ liều, đủ thời gian.
FDA phê chuẩn Azilsartan trong điều trị cao huyết áp
Cơ quan Quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê chuẩn một chất ức chế thụ thể angiotensin mới (ARB) là azilsartan medoxomil (Erdarbi, Takeda Pharmaceutical), dùng điều trị cao huyết áp ở người lớn. Thuốc có các liều 80mg và 40mg, mặc dù 80mg là liều khuyến cáo. Liều 40mg dành cho các bác sĩ muốn kết hợp thuốc này cho những bệnh nhân đang dùng lợi tiểu liều cao.
Trong các nghiên cứu giai đoạn 3, nghiên cứu đầu tiên được heartwire báo cáo trong cuộc họp của Hội Cao huyết áp Hoa Kỳ (ASH) năm 2010, azilsartan ở liều cao nhất có hiệu quả hơn làm giảm huyết áp 24 giờ so với 2 đối thủ ARB olmesartan (Benicar, Daiichi Sankyo), valsartan (Diovan, Novartis).
`Vào đầu tuần này, Takeda cũng đệ trình hồ sơ Ứng dụng Thuốc Mới (NDA) lên FDA về thuốc viên kết hợp azilsartan với chlorthalidone - một thuốc lợi tiểu giống như thiazide. Trong một thử nghiệm cũng được trình bày năm ngoái tại ASH, phối hợp azilsartan-chlorthalidone có hiệu quả hạ áp hơn là azilsartan và hydrochlorothiazide (HCTZ).
Azilsartan có lời cảnh báo trên vỏ hộp là thai phụ nữ tránh dùng thuốc này vì có thể gây tổn hại đến phát triển của thai nhi, nếu dùng trong thai kỳ thứ 2 và thứ 3. Nếu phụ nữ đang dùng azilsartan mà có thai thì nên dừng thuốc ngay.
5 hiểu lầm về việc uống nước
1. Bạn phải uống 8 ly nước mỗi ngày?
Thực tế mỗi người đều cần một số lượng nước khác nhau. Bạn không cần phải uống nước chính xác từng li từng tí như khuyến cáo của các nhà khoa học vì cơ thể mỗi người rất khác nhau. Theo đó, một số người có thể cần uống nhiều hơn 10 ly nước/ngày, trong khi những người khác có thể chỉ cần uống ít nước hơn.
2. Bạn không nên uống nước trong bữa ăn?
Một số người có thể cho rằng việc uống nước trong bữa ăn là một ý tưởng tồi vì điều này không thực sự quan trọng. Nhưng thực tế, nước tuy có trong rất nhiều các thực phẩm bạn đang ăn. Nhưng những nước này đã được nấu cùng với các thực phẩm sẽ khiến những thứ như hoa quả khó có thể tiêu hóa. Vì thế việc uống nước trong bữa ăn có thể trợ giúp bạn tiêu hóa dễ dàng hơn.
3. Nước máy không đảm bảo cho bạn uống?
Nhiều người cho rằng, nước máy không đảm bảo vệ sinh cho bạn uống. Tuy nhiên thực tế, chỉ những khu vực mà chất lượng sống quá nghèo thì nước máy có thể không đảm bảo. Còn ngược lại, nước máy thường được kiểm tra chất lượng thường xuyên. Và hầu hết các khu vực có nước máy hoàn toàn an toàn để cho bạn uống.
4. Nước đóng chai an toàn và đảm bảo hơn nước máy?
Nước đóng chai thực sự không phải là thứ nước an toàn, đảm bảo và tốt hơn hẳn so với nước máy như nhiều người vẫn nghĩ. Thực tế, nước đóng chai có thể chứa nhiều thành phần khá độc hại cho sức khỏe của bạn. Chưa kể đến việc, những chai đựng nước không được tái chế khi sử dụng và việc lọc nước tại các nhà máy tư nhân không đảm bảo.
5. Chỉ uống nước khi bạn cảm thấy khát?
Ngay cả khi bạn không có cảm giác khát nước, bạn vẫn nên uống đủ lượng nước bạn cần. Điều này đặc biệt tốt để duy trì sức khỏe và thể lực khỏe mạnh trong những ngày nắng nóng. Nếu bạn chỉ uống nước lúc cơ thể bạn báo hiệu khát nước thì lúc ấy bạn đã bị mất nước.
Thuốchạcholesterolcó thểlàmgiảm đôngmáu
Đôngmáulà mộtkhảnăngsốngcòncủacơ thểvì nó giúpcơ thểngănngừachảymáuvà đảmbảothànhmạchvữngbền. Nhưngnhữngnghiêncứumới đâychothấy, cácthuốchạcholesterol, nhómthuốcthường đượcsửdụngchonhữngngườibéophì có tăngcholesterolmáu, có thểgâyrahiệntượnggiảmkhảnăng đôngmáu. Nhómnghiêncứucủa ĐạihọcReading, Anh đã nghiêncứutrênchuộtthì thấyrằngtrongcơ chế đôngmáucó sựthamgiacủamộtproteincó tênlà LXR. Và cácthuốchạcholesterolcó thểlàmgiảmnồng độloạiproteinnày. HộiTimmạchAnhquốckhuyên: trướckhisửdụngthuốchạcholesterolchonhữngbệnhnhâncó nguycơ caobịnhồimáucơ tim, độtqụynãothì mỗibácsĩ cầnlưu ý tớicáctácdụngphụcủathuốc, đặcbiệtlà cáctácdụngcó ảnhhưởngtrênhệthống đôngmáu. Kếtquảnghiêncứunàycó thểmởramộthướngnghiêncứumớihiệuquảhơnvà antoànhơn.
Làmthếnào đểgiảmtáchạicủadịứngthuốc: Mộtnghiêncứuthí điểmCácphảnứngdịứngxảyratrênbệnhnhâncó tiềnsửdịứnglà nhữngsựcốbấtlợiliênquantớithuốcnguyhiểmnhưngcó thểngănngừa được. MarkStone, SallyTomlinvà MikeWilcock đã mô tảchươngtrìnhphốihợphành độnggiữaHệthốngchămsócsứckhỏecộng đồng (NHS – Nationalhealthservice) và ngànhcôngnghệdượcphẩmnhằmgiảiquyếtvấn đềtrên.
Theo ướctính, cứ 1000 bệnhnhânthì có khoảng 4,2 bệnhnhânbịdịứngthuốc, và cứ 1000 trườnghợpnhậpviệnthì có khoảng 0,2 gặpphảnứngquá mẫnnghiêmtrọng. Tỷlệtửvongdocácphảnứngdịứngthuốcvàokhoảng 0.09 trong 1000 trườnghợpnhậpviện. Thốngkê tronglĩnhvựckhámchữabệnhban đầu (primarycare) chothấygần 80% cáccacấpcứudosựcốbấtlợiliênquan đếnkhángsinh đềulà dophảnứngdịứng.
Cácphảnứngdịứngxảyratrênbệnhnhâncó tiềnsửdịứnglà sựcốbấtlợinghiêmtrọngliênquantớithuốcnhưngcó thểngănngừa được. Mụctiêulàmgiảmtáchạicó khảnăngngănngừaởbệnhnhâncó tiềnsửdịứnglà mộttrongbẩymụctiêu ưutiêncủacơ quanquốcgiavềantoànchongườibệnh - NPSA . Đặcbiệt, viêcsửdụngcácchếphẩmcó chứapenicillinởcácbệnhnhâncó tiềnsửdịứngvớipenicillin đã gâyramộtlượng đángkểcácphảnứngbấtlợi (mộttrongsố đó gâyhậuquảnghiêmtrọnghoặctửvong). TheocácbáocáotừcácvùngởmiềnTâyNam, đã xảyracáctaibiếnkhi kê đơnvà cấpphátcácthuốcnhư Co-amoxiclavchobệnhnhândịứngvớipenicillin, và chúngtôinghingờrằngkhôngphảitấtcảcáctrườnghợptaibiếnnày đều đượchệthốngbáocáovà nghiêncứuquốcgiaghinhận.
Theocơ quanquốcgiavềantoànchongườibệnh (NPSA), nhữngyếutốgópphầngâyracáctáchạiliênquan đếndịứngbaogồmviệcngườikê đơnvà cấpphátthuốckhôngthựchiệnviệckiểmtratìnhtrạngdịứngcủangườibệnhngaycảkhicácthôngtinnày đã có sẵntronghồsơ ngườibệnhvà tínhchấtcủathuốcliênquan. Ví dụ, việcghinhậncáctrườnghợpdịứngthuốctronghệthống điềutrịchuyênkhoa (secondarycare) đã đượcchứngminhlà không đầy đủ, mặcdù dượcsĩ bệnhviện được đềxuấtcó vaitrò hoànthiệntàiliệuvềdịứngthuốc. Trongkhámchữabệnhban đầu (primarycare), hệthốnglâmsàng đã tinhọchoá củacácbácsĩ đakhoabaogồmkiếnthứcvà việcsửdụngcác đặc điểmantoàncủangườibệnhlà khôngtối ưu, vớimộtsốquanniệmsailầmlà máytínhsẽ đưaracảnhbáovềnhữngchốngchỉ địnhtiềmtàng, như thôngtinvềtìnhtrạngdịứngthuốc.
Trênthựctế, nhiềubệnhnhânkhimiêutảlạiphảnứngdịứngvớipenicillin đềukhôngchắcchắnvềnhữngtriệuchứng điểnhìnhvà thậmchí khôngcó bằngchứngvềphảnứngdịứngthựcsựvớipenicillin. Tuynhiêncácbệnhnhânnàyvẫn đượcbácsĩ lâmsàngghinhậnlà “dịứngvớipenicillin”. Theobáocáo, có tới 80 đến 90% bệnhnhân đượcghinhậndịứngvớipenicillinnhưngchokếtquả âmtínhkhithửlạibằngtesttrênda. Điềunàycó nghĩapenicillinbịchốngchỉ địnhvớicảnhữngbệnhnhâncó thểsửdụngnó antoàn. Tómlại, táchạicó khảnăngngănngừagâyrabởidịứngthuốccó thểdonhữngnguyênnhânsau:
-Cáccá nhân, tổchứckhôngbáocáovềdịứngthuốcmộtcách đầy đủ.
-Hệthốngghinhậntìnhtrạngdịứngthuốccó vấn đề.
-Cácnhânviênytếthiếuthôngtinvềbệnhnhân (hoặcthôngtinkhông đượclưu đúngchỗ)
-Bệnhnhânthiếuhiểubiếtvềtìnhtrạngdịứngcủahọvà tầmquantrọngcủanó đếnvấn đề điềutrị.
-Ngườikê đơn (hoặccácnhânviênytếkhác) thiếuhiểubiếtvềthuốc.
-Nhữngtênthuốckhôngchỉrõ chúngcó chứathuốcgâydịứng (VD: penicillincó trongthuốcCo-amoxiclav)
Đểgiảiquyếtnhữngvấn đềtrên, chúngtôi đã thamgiavàomộtchươngtrìnhphốihợphành độnggiữaNHSkhuvựcTâyNamvà ngànhcôngnghệdượcphẩmvớisựhỗtrợcủachươngtrìnhmởrộngcủahiệphộicôngnghiệpdượcphẩmAnhquốc (ABPI). Chươngtrìnhnày đã đưarabản đềcương, cáchtiếnhànhvà đánhgiá mộtdự ánnhằmgiảmthiểusaisótxảyravớibệnhnhâncó tiềnsửdịứngkhihọ đượckê đơn, cấpphát, sửdụngmộtthuốc. Thôngquaviệcthuthậpdữliệuvà đánhgiá chuyênmôn, chươngtrìnhcũng đã chứngminhlợi íchcủasựphốihợphành độnggiữaNHSvà ngànhcôngnghệdượcphẩm.
Mộtnhómtrọng điểm đã đượcthànhlậpvớicácthànhviênlấytừcộng đồngnhằm đánhgiá sựhiểubiếtcủahọvềdịứngthuốcvà tìmhiểu ý kiếncủahọvềviệclàmthếnào đểgiatăngnhậnthứcvềvấn đềnày. Kếtquảchothấyngườidâncó nhậnthứctốtvềtầmquantrọngcủadịứngvớithức ăn (cácloạitôm,cua, sò hếnvà quảhạch) và vớicácnốt đốt (ong, ngòicôntrùng), tuynhiênnhậnthứcvềdịứngthuốccònkém. Nhómcũngrútrarằngcáccá nhâncầnphải ý thức đượctiềnsửdịứngcủabảnthânvà đượcquyềnthôngbáochonhânviêncủatấtcảcáchệthốngytế. Mỗicá nhânlà mộtyếutốhằng địnhởbấtkỳdịchvụytếnào (ví dụ: bácsĩ đakhoa, ytá quận, hiệuthuốccộng đồng, bệnhviện, phòngkhámnhakhoa, hoặcdịchvụngoàigiờ). Vấn đềnàygần đây được đềnghịtrongcáchướngdẫn đểbệnhnhâncó ý thứcvềtráchnhiệmcủahọtrongphòngtránhnhữngloạithuốcgâydịứngtrongtươnglai.
Là mộtphầncủaphươngpháplặpnhằmpháttriểnbiệnphápcanthiệphiệuquả, tínhkhảthicủaviệccácdượcsĩ cộng đồngcó đượcthôngtinchínhxácvềtìnhtrạngdịứngthuốckhicânnhắcviệcsửdụngthuốcvà liênhệvớiquá trìnhkhámchữabệnh đã đượckiểmtra. Mặcdù điềunàychỉlà mộtphầnnhỏtrongchươngtrình, tuynhiênnó đã nêubậtlênsựkémhiểubiếtcủabệnhnhânvềdịứngthuốc. Đợt kiểm tra cũng cho thấy bệnh nhân rất coi trọng những cuộc trao đổi này, đồng thời nó cũng chỉ ra sự không thống nhất cao độ giữa các báo cáo của hiệu thuốc và các bác sĩ đa khoa, tuy nhiên trong một hiệu thuốc cộng đồng nhộn nhịp, việc tìm hiểu thông tin từ bệnh nhân theo cách này là rất tốn thời gian.
Từ các kết quả đã nêu trên, đặc biệt chú trọng tới tầm quan trọng của vấn đề nhận thức và quyền hạn của bệnh nhân, đã cho thấy sự cần thiết phải tiến hành thêm một số thử nghiệm thay đổi ở quy mô nhỏ. Những tài liệu cho phép bệnh nhân thảo luận về tình trạng dị ứng của mình với người kê đơn, cấp phát và sử dụng thuốc đã được phát triển. Tương tự, một mẫu hồ sơ đã được thiết kế cho phép truyền đạt thông tin về tình trạng dị ứng thuốc giữa các bác sĩ đa khoa và các dược sĩ cộng đồng. Những tài liệu này cũng đã được thử nghiệm tại một hiệu thuốc bệnh viện và 2 hiệu thuốc cộng đồng. Trong thử nghiệm mang tính thí điểm này, khi cấp phát kháng sinh, dược sĩ đặt ra những câu hỏi ngắn cho bệnh nhân để biết xem họ đã bao giờ gặp vấn đề với penicillin chưa. Nếu có, họ sẽ được hỏi để chắc chắn họ có thực sự bị dị ứng thuốc hay không. Những bệnh nhân được cho rằng bị dị ứng thuốc thực sự sẽ được nhận một phiếu thông tin và một thẻ theo dõi bệnh nhân. Những người khẳng định bị dị ứng thuốc, tuy nhiên người phỏng vấn không chắc chắn, được phát một phiếu thông tin. Khi cần thiết, bệnh nhân có quyền yêu cầu chuyển những thông tin này tới bác sĩ đa khoa của họ. Số lượng những bệnh nhân dị ứng thực sự được phát hiện trong bệnh viện nhiều hơn tại các hiệu thuốc cộng đồng. Các bệnh nhân đã có phản hồi tích cực về tài liệu của dự án và thẻ theo dõi bệnh nhân.
Dự án này có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan quốc gia về an toàn bệnh nhân. Điều này đã tạo điều kiện để phát triển đường lối chỉ đạo của quốc gia cho các nhà cung cấp công nghệ thông tin cho hệ thống y tế quốc gia nhằm mục đích cải thiện độ an toàn của hệ thống khám và điều trị bệnh. Việc triển khai rộng dự án trong vùng Tây Nam gồm cả khám chữa bệnh ban đầu và chuyên khoa hiện đang được thảo luận (ví dụ, sự tin cậy của chăm sóc sơ cấp thông qua các chiến dịch sức khoẻ công cộng hoặc việc kiểm tra nhà thuốc công cộng).
Tài liệu của chiến dịch này được chia sẻ thông qua các mạng lưới chuyên nghiệp, nâng cao nhận thức về dị ứng thuốc và các thông tin về dự án này có sự phối hợp với các phương tiện truyền thông địa phương thông qua việc phát hành báo chí và tin tức phát thanh. Giai đoạn cuối cùng của dự án là phổ biến những tài liệu này công khai trên một trang web để phục vụ những đối tượng muốn sử dụng hoặc điều chỉnh để sử dụng ở cấp địa phương, và để cung cấp thông tin cho 1 trang web phù hợp chẳng hạn the anaphylixis campaign (www.anaphylixis.org.uk). Bàiviếttrên đâydonhómbiêndịchvềdượclâmsàngcủa ĐHdượcHà Nộibiêndịch
Sự thật về thông tin chữa được HIV/AIDS
Sau khi một số báo đưa tin về một bệnh nhân HIV/AIDS ở Trung Quốc vừa được chữa khỏi, rất nhiều người mắc bệnh này ở Việt Nam đã sang nước bạn tìm cơ hội chữa trị. Nhưng các chuyên gia khẳng định, hiện chưa có cách nào loại bỏ hoàn toàn virus HIV trong cơ thể.
Gần đây, Tân Hoa Xã dẫn nguồn từ Trung tâm kiểm soát dịch bệnh tỉnh Cát Lâm (Trung Quốc) cho biết sau 6 năm được chẩn đoán nhiễm HIV, ông Ôn Tống Thành, một nông dân ở Cát Lâm đi xét nghiệm lại đã có kết quả âm tính. Ông được nhân viên y tế thông báo nhiễm HIV năm 2001 trong lần tham gia hiến máu. Kết quả này được Trung tâm kiểm soát dịch bệnh tỉnh Cát Lâm khẳng định lại vào 2003. Giáo sư Vũ Mẫn, thành viên hội đồng cố vấn HIV/AIDS của Bộ Y tế Trung Quốc nghi ngờ các kết quả xét nghiệm dương tính trước đây là không đúng. Theo ông, ngay cả khi không còn HIV sau điều trị thì các kháng thể chống virus này vẫn còn trong cơ thể, nếu kết quả dương tính trước đó là chính xác. Cơ quan chức năng y tế Trung Quốc đang tiếp tục kiểm tra các mẫu máu cũ được lưu giữ của ông Ôn Tống Thành. Còn tại Việt Nam, sau khi có thông tin trên, điện thoại của một số phòng tham vấn HIV/AIDS ở TP HCM liên tiếp bị “nghẽn mạch” bởi những cuộc gọi hỏi thăm thông tin. Nhiều người nghe đồn rằng đã có bệnh nhân người Việt Nam được các cơ sở y tế ở Trung Quốc chữa khỏi.
Tuy nhiên, Thứ trưởng bộ Y tế Trịnh Quân Huấn khẳng định, đến thời điểm này, chưa có bất kỳ bài thuốc nào chữa hết HIV/AIDS và cũng chưa có bệnh nhân nào ở Việt Nam khỏi bệnh: “Cách đây nhiều năm, báo chí Mỹ cũng có đưa thông tin tương tự nhưng rồi cũng phải cải chính”. Cũng theo ông Huấn, hiện có một số bài thuốc cho người bị HIV/AIDS bằng thảo dược, nhưng đều chỉ có tác dụng điều trị các bệnh nhiễm trùng cơ hội. Bác sĩ Đồng Văn Ngọc, người trực tiếp điều trị bệnh nhân HIV/AIDS giai đoạn cuối ở Bệnh viện Nhân Ái TP HCM (Bình Phước), cho biết cách đây 10 năm thế giới cũng có một trường hợp nhiễm HIV có kết quả âm tính sau nhiều năm điều trị. Tuy nhiên, số bệnh nhân may mắn đó chỉ chiếm tỷ lệ 1/100 triệu bởi tiêu diệt HIV là việc cực kỳ khó, và còn phụ thuộc vào cơ chế miễn dịch tự nhiên của người bệnh có đặc biệt không.
“Bệnh nhân ở Trung Quốc không dùng bất kỳ loại thuốc nào mà cũng khỏi thì có thể do ở người này đã hình thành một cơ chế miễn dịch để phá huỷ những tế bào mang bệnh. Tuy nhiên đây cũng chỉ mới là dự đoán”, ông Ngọc nói. Một chuyên gia dịch tễ học của Viện Các bệnh truyền nhiễm và nhiệt đới quốc gia cho rằng, nếu kết quả xét nghiệm mẫu máu HIV/AIDS năm 2001 của bệnh nhân Trung Quốc cho kết quả dương tính nhưng xét nghiệm năm 2007 là âm tính thì cần xem lại mức độ chuẩn xác của xét nghiệm năm 2001. Không loại trừ khả năng mẫu xét nghiệm cũ bị sai hoặc có nhầm lẫn mẫu máu. Chuyên gia này cũng cho rằng, nếu so với 33 triệu trường hợp nhiễm HIV trên thế giới thì 1-2 trường hợp bất thường như vậy là quá ít để đặt vấn đề có khả năng chữa khỏi HIV/AIDS. Nhiều hội nghị khoa học trên thế giới từ xưa và gần đây cũng khẳng định chưa có cách nào làm mất kháng thể HIV trong máu.
Theo ông Dương Quốc Trọng, Cục trưởng cục Phòng chống HIV/AIDS, cách đây ít lâu, tạp chí Bệnh truyền nhiễm của Mỹ cũng đăng tải ý kiến của các nhà nghiên cứu cho biết, nếu bắt đầu điều trị thuốc kháng virus sau khi nhiễm HIV thì có thể loại trừ hoàn toàn virus này ra khỏi cơ thể trong khoảng 8 năm. Thông tin này đã làm người bệnh khắp nơi trên thế giới “sôi sục”. Tuy nhiên chỉ vài ngày sau đó, một trong các nhà nghiên cứu ấy lại chỉ ra rằng, 4 trong số 7 bệnh nhân được nghiên cứu có tỷ lệ phân huỷ virus chậm hơn. Và họ cũng nhìn nhận rằng chỉ cần một vài tế bào nhiễm HIV còn tồn tại cũng đủ làm cho tình trạng bệnh nghiêm trọng trở lại nếu ngừng thuốc kháng virus.
Những người này cũng khẳng định các chiến lược điều trị HIV hiện tại không thể loại trừ hoàn toàn HIV khỏi cơ thể.
Arsen và kim loại độc hại có mặt trong thức ăn dặm
Nhiều loại thức ăn dặm dành cho trẻ bị phát hiện chứa những chất độc hại như: chì, arsen và cadmi. Dù hàm lượng của chúng đều ở ngưỡng cho phép, tuy nhiên theo các chuyên gia, cần thắt chặt hơn mức giới hạn này. Các nhà khoa học thuộc Viện Karolinska, Thụy Điển đã lấy mẫu 9 loại thực phẩm ăn dặm và 9 loại sữa công thức để kiểm tra. Kết quả cho thấy, rất nhiều loại bị phát hiện có sự hiện diện của những chất độc hại ở mức cần lưu ý như: chì, arsen và cadmium.
Telegraph đưa tin, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy so với việc chỉ bú sữa mẹ thì nếu cho trẻ ăn những thực phẩm như cháo gạo 2 lần một ngày có thể làm tăng mức phơi nhiễm với arsen lên đến 50 lần; mức độ phơi nhiễm với các kim loại độc hại khác như cadmi (có thể gây tổn thương ở thần kinh và thận) lên đến 150 lần trong một số mẫu kiểm nghiệm, trong khi chì tăng lên 8 lần.
Những sản phẩm được lấy mẫu của các nhãn hàng như: Organix, Hipp, Nestle và Holle. Arsen và các kim loại độc hại được tìm thấy trong thực phẩm là do hấp thu từ đất qua những cây trồng như gạo, lùa mỳ và yến mạch. Khẳng định hàm lượng của các chất này nằm trong giới hạn cho phép, tuy nhiên các nhà khoa học cho rằng chúng vẫn đáng lo vì là thức ăn dành cho trẻ sơ sinh. Chẳng hạn như arsen, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy nó có thể gây ung thư dù là với hàm lượng thấp.
Vì thế, theo các chuyên gia, cần có những tiêu chuẩn mới, chặt hơn nhằm hạn chế sự hiện diện của các chất độc này trong thực phẩm dành cho trẻ.
Chuyên gia hướng dẫn kỹ thuật nuôi giun quế.
Giun đất và khả năng điều trị tăng huyết áp
Y văn gọi các vị thuốc từ giun đất là Địa long (Rồng đất). Trong các tác dụng của Địa long thì hỗ trợ hạ huyết áp được quan tâm nhiều nhất. Ngoài ra, vị thuốc từ giun đất còn giúp dự phòng tai biến mạch máu não. Trong cuốn “Bản thảo cương mục” nổi tiếng của y học cổ truyền Trung Hoa, giun là nguyên liệu sản xuất 40 bài thuốc, điều trị nhiều loại bệnh.
Y học cổ truyền của nhiều nước, trong đó có Việt Nam, dùng giun đất điều trị các bệnh về huyết áp, tim mạch, thần kinh, hen suyễn, sốt rét... Nghiên cứu hiện đại cho thấy giun đất chứa chất Lumbriferin giúp thanh nhiệt, hạ sốt. Các thành phần đạm trong giun có tác dụng kháng Histamin, làm giãn khí quản. Điều này lý giải việc y học cổ truyền thường dùng Địa long để trị hen suyễn, viêm phế quản, khó thở. Nó cũng chứa hàm lượng rất cao axit Linoleic, cùng khoáng chất vi lượng chống oxy hóa Selen giúp tăng cường miễn dịch, nâng cao sức đề kháng trong cơ thể.
Ở Việt Nam, toa thuốc và tên bài thuốc sử dụng địa long chữa tai biến mạch máu não đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XX, được in lại trong cuốn sách “Hai trăm bài thuốc quý” của lương y Lê Văn Tình vào năm 1940. Sau này, bài thuốc đã được ông Nguyễn An Định, con trai của nhà văn hóa Nguyễn An Ninh cho phổ biến trên một số tờ báo. Bài thuốc cũng đã được bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, nguyên Bộ trưởng Y tế phổ biến để sử dụng trong đợt chống dịch sốt xuất huyết tại các tỉnh miền Bắc năm 1969.
|
Địa long hiện nay có trong viên uống thảo dược Hạ áp ích nhân. Đây là sản phẩm đầu tiên tại Việt Nam ứng dụng tác dụng quý của giun quế với người bệnh tăng huyết áp. |
Người bệnh bị tăng huyết áp, tai biến mạch máu não có thể do vỡ mạch (huyết áp tăng cao, áp lực lên mạch máu não quá lớn dẫn tới vỡ mạch máu não), hoặc tắc mạch (tăng huyết áp thúc đẩy sự xuất hiện mảng xơ vữa và cục máu đông làm bít tắc mạch máu nuôi dưỡng một phần não). Do đó, việc dự phòng tai biến mạch máu não cần kiểm soát huyết áp ở ngưỡng an toàn và hạn chế các yếu tố nguy cơ hình thành cục máu đông.
Dung dịch cồn của giun có tác dụng giảm huyết áp từ từ và ổn định huyết áp lâu dài. Nghiên cứu của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc kết luận Enzyme Fibrinolytic trong giun đất có khả năng thủy phân mạnh mẽ, làm đứt các sợi Fibrin - tác nhân chính hình thành nên mảng xơ vữa và cục máu đông. Đây chính là cơ chế dùng Địa long giúp dự phòng tai biến mạch máu não do tắc mạch. Như vậy loài giun nào có hàm lượng Enzym Fibrinolytic càng cao thì tác dụng càng tốt.
Theo nghiên cứu của PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Dao và cộng sự thuộc Viện khoa Học và Công nghệ Việt nam, loài giun quế - Peryonix Escavatu có chứa hàm lượng Emzyme Fibrinolytic cao hơn các loài giun khác. Từ lợi ích này, giun quế hiện nay được nuôi theo quy trình chuẩn tại các trang trại lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân. Nhiều mô hình nuôi giun quế đã được phát triển tại khắp các tỉnh thành như: Sóc Sơn Hà Nội (trại giun PHT), Phú Hòa - Phú Yên (trại giun Thiên Phát), Đồng Nai, Bắc Giang...Tác dụng của giun quế mở ra triển vọng lớn phát triển các bài thuốc từ Địa long cho người tăng huyết áp, vì hiện nay không nhiều chế phẩm vừa hạ huyết áp vừa dự phòng được tai biến mạch máu não.
Tảo xoắn Spirulina Chrom giúp kiểm soát đường huyết
Spirulina Chrom, tảo xoắn giàu Chrom GTF của Công ty Bluebiotech, Đức được tạo ra bởi công nghệ sinh học hiện đại có tác dụng kiểm soát đường huyết, giảm HbA1c. Ngoài ra, do có nguồn gốc từ tảo xoắn thiên nhiên nên sản phẩm còn cung cấp thêm nhiều vi chất dinh dưỡng, vitamin, hoạt chất chống gốc tự do. Điều này giúp cơ thể khỏe mạnh, tăng cường sức đề kháng, hạn chế các biến chứng do độ đường huyết cao ở người bệnh đái tháo đường, không có phản ứng phụ.
Sự chuyển hoá đường có hai yếu tố quan trọng là Insulin và Insulin Receptor. Trong đó, Insulin có tác dụng giúp vận chuyển đường vào trong tế bào còn Insulin Receptor là cơ quan nhận biết Insulin của bản thân tế bào. Nếu cơ quan Insulin Receptor không nhận biết có Insulin trong máu tức là tế bào nhờn hay kháng với Insulin. Do đó, nó không phát tín hiệu cho phép glucose từ máu vào tế bào, gây ra bệnh đái tháo đường kháng Insulin.
Việc thiếu Insulin (gây tiểu đường) hoặc Insulin Recepter của tế bào bị hỏng, không hoạt động (gây kháng Insulin, tiểu đường) đều khiến đường không vào được trong tế bào, dẫn đến đường huyết tăng cao (bệnh tiểu đường). Tế bào mô cơ của người khỏe mạnh có khoảng 200.000 Insulin Receptor. Tuy nhiên, người bị bệnh tiểu đường chỉ còn lại khoảng 5.000. Chrom GTF có tác dụng phục hồi, ngăn chặn các tác nhân gây hỏng hóc Insulin Receptor, làm nó nhạy cảm hơn với Insulin. Do đó, nếu cả hai nhân tố cho sự chuyển hóa đường trên đều có đủ và hoạt động tốt thì bệnh tiểu đường sẽ được chữa trị.
Thế giới có nhiều nghiên cứu về vai trò của Chrom trong việc chuyển hóa đường. Trong đó, tác giả Dr. Peter J Havel – chuyên gia về nội tiết tại khoa dinh dưỡng, đại học California, Mỹ có 70 công trình nghiên cứu và đưa ra kết luận: chế phẩm bổ sung Chrom hiệu quả tốt trong việc kiểm soát đường huyết đặc biệt là kiểm soát chỉ số HbA1C đối với bệnh nhân tiểu đường và tiểu đường thai kỳ. "Tại Việt Nam, Spirulina Chrom (tảo xoắn giàu Chrom GTF) là một chế phẩm mới giàu Chrom GTF được nhập khẩu giúp giảm chỉ số HbA1C, huyết áp và mỡ máu", bác sĩ Lâm Đình Phúc, Nguyên chủ nhiệm khoa đái tháo đường, bệnh viện Nội tiết TƯ, Chủ nhiệm câu lạc bộ những người mắc bệnh đái tháo đường Hà Nội cho biết.