Bệnh thủy đậu-bệnh do Varicella zoster gây ra, bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi và cả hai giới. Đặc biệt, nếu bệnh trên cơ địa người suy giảm sức đề kháng hoặc miễn dịch (ung thư, HIV/AIDS, sử dụng corticoides kéo dài, lao) thì diễn tiến bệnh nặng và biến chứng sẽ nặng hơn. Tỷ lệ mắc bệnh khoảng 1,3-4,8/ 100.000 dân/ năm.
Thủy đậu thường bùng phát thành dịch vào mùa xuân và dễ lây lan trong cộng đồng, nhất là nơi tập trung đông người (công sở, trường học, nhà trẻ, khu có nhiều công nhân ở và làm việc như khu chế suấ, khu ký túc xá,…). Tương tự như sởi và một số bệnh có phát ban do virus khác, thủy đậu gây tổn thương lành tính và không để lại sẹo nếu như chúng ta có chế độ chăm sóc và điều trị hợp lý. Tuy nhiên, một số phương cách điều trị không đúng, không hợp vệ sinh sẽ có thể dẫn đến bệnh nặng và biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm màng não, viêm phổi nặng, nhiễm trùng da, nhiễm trùng huyết và có thể đe dọa tử vong.
Vào quý I năm 2008, tổng số ca mắc bệnh thủy đậu trên toàn quốc lên đến con số hàng ngàn và diễn biến bệnh còn phức tạp, gây thiệt hại nhiều cho gia đình và xã hội (trẻ em không đến trường, cha mẹ bỏ công việc, giảm thu nhập kinh tế,…). Quy mô bệnh thủy đậu có thể lớn hơn nếu không có biện pháp khống chế kịp thời và có sự hợp tác giữa gia đình, bệnh nhân, thầy thuốc và cộng đồng chặt chẽ. Một trong những biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất hiện nay để phòng bệnh thủy đậu cho tất cả đối tượng chính là tiêm vaccine chống bệnh thủy đậu.
Chỉ tính riêng năm 2007, khoảng 80% đối tượng chưa được chủng ngừa thủy đậu thì vẫn có khả năng mắc bệnh, song đến thời điểm này số người đi ti êm phòng bệnh này khá nhiều, song số lượng trẻ được tiêm chủng cũng còn cao, chính vì vậy việc đưa thông tin về sử dụng vaccine phòng bệnh này là việc làm hết sức cần thiết, nhằm mang lại sức khỏe cho nhân dân.
Vaccine phòng bệnh thủy đậu
Vaccine có tên chung là vaccine thủy đậu, tên thương mại là Varilrix, nơi sản xuất là hãng Glaxo Smith Kline Biologicalss S.A. Vaccine được chỉ định tiêm theo lịch như sau:
Liều 0,5ml tiêm dưới da
Trẻ từ 12 tháng tuổi đến 12 tuổi: tiêm 1 liều duy nhất;
Trẻ từ 13 tuổi trở lên và người lớn: cần tiêm 2 liều, liều 2 cách liều 1 khoảng 6-10 tuần.
Một số tác dụng phụ sau tiêm vaccine: Varilrix là một loại vaccine ít gây phản ứng phụ ở tất cả trẻ từ 9 tháng tuổi trở lên. Cũng như các trường hợp tiêm vaccine khác, cần phải chuẩn bị sẵn sàng để chống sốc, trẻ sau khi tiêm phải được theo dõi tại cơ sở y tế trong vòng 30 phút.
Đặc biệt cần chú ý: Phải dùng vaccine ngay sau khi hồi chỉnh, nên hoãn tiêm ít nhất 3 tháng đói với các trường hợp đang dùng globuline miễn dịch hoặc truyền máu vì vaccine có thể không tác dụng do bệnh nhân có kháng thể kháng thủy đậu thụ động.
Trên các đối tượng khỏe mạnh:
-Phản ứng tại chỗ tiêm thường là nhẹ, ban đầu sần mụn nước xuất hiện ở 3,6% đối tượng được tiêm-hầu hết xảy ra trong vòng 3 ngày đầu sau khi tiêm;
-Thân nhiệt có thể >370C(ở nách) hoặc > 380C (hậu môn) có thể gặp khoảng 5% số trường hợp tiêm.
Trên các trường hợp có nguy cơ cao
-Các phản ứng tại chỗ tiêm thường là nhẹ;
-Có thể xuất hiện ban sẩn mụn nước, hiếm khi kèm theo sốt nhẹ sau khi tiêm vài ngày cho đến vài tuần; những phản ứng phụ này xảy ra khoảng < 25% số bênh nhân bị bệnh bạch cầu (những nốt ban này thường nhẹ và mất nhanh, có xu hướng xuất hiện ở những bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu có suy giảm miễn dịch như các trường hợp đang được điều trị hóa trị liệu)
Chống chỉ định tuyệt đối với vaccine thủy đậu
-Không tiêm vào mạch máu để tránh sốc phản vệ;
-Tiên trong da;
-Các trường hợp sốt cấp tính nặng;
-Số lượng tế bào lympho < 1200/ mm3;
-Thiếu đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào;
-Mẫn cảm với các thành phần của vaccine;
-Phụ nữ có thai.
Chống chỉ định tương đối
-Các bệnh nhân bị bệnh bạch cầu (khi bệnh nhân tiêm vaccine thủy đậu trong giai đoạn cấp của bệnh, thì không nên dùng hóa trị liệu 1 tuần trước và 1 tuần sau khi tiêm, só lượng lympho bào phải >1200/mm3; không có biểu hiện suy giảm đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào);
-Bệnh nhân dang điều trị bằng tia xạ;
-Bệnh nhân có khối u ác tính hoặc bệnh mạn tính nặng (suy thận, bệnh tự miễn, bệnh tạo keo, hen phế quản nặng)thì tiêm vaccine khi đã thuyên giảm các triệu chứng về huyết học; số lượng tế bào lympho . 1200/mm3, không có các biểu hiện khác về suy giảm miễn dịch qua trung gian tế bào);
-Bệnh nhân chuẩn bị cấy, ghép các cơ quan; tiêm vaccine vài ngày trước khi dùng liệu pháp miễn dịch;
-Bệnh nhân bị rối loạn chuyển hóa và nội tiết, bệnh phổi và tim mạch mạn tính, bệnh màng trong và rối loạn thần kinh cơ.
Hoãn tiêm ít nhất 3 tháng với trường hợp đang dùng globuline miễn dịch (IG) hoặc truyền máu vì vaccine có thể không có tác dụng do bệnh nhân có kháng thể kháng thủy đậu thụ động.
Đối với người khỏe mạnh
-Có thể tiêm vaccine Varilrix cùng lúc với các vaccine khác nhưng ở vị trí tiêm khác nhau;
-Nếu không uống vaccine bại liệt cùng lúc với tiêm Varilrix thì phải uống trước hoặc sau khi tiêm 1 tháng (một mặt để phòng ngừa sự tương tác giữa vaccine qua kích thích interferon, mặt khác là để giảm đến mức tối thiểu nguy cơ bị bại liệt liên quan đến vaccine);
-Có thể gặp phản ứng phụ nhiều hơn sau khi tiêm cùng lúc với vaccine Varilrix với một vaccine khác có tính gây phản ứng phụ cao hơn;
Đối với bệnh nhân có nguy cơ cao
-Không được tiêm vaccine Varilrix cùng lúc với các vaccine sống giảm độc lực khác;
-Các vaccine bất hoạt có thể được tiêm trước hay sau vaccine Varilrix, miễn là không có chống chỉ định đặc biệt;
-Các vaccine tiêm khác nhau phải được tiêm những vị trí khác nhau; không được trộn Varilrix với các vaccine khác trong cùng một bơm tiêm.