Cập nhật tháng 12/2014. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) - Phòng ngừa và kiểm soát ung thư vú (Breast cancer: prevention and control). Ung thư vú là loại ung thư hàng đầu ở phụ nữ cả ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú đang gia tăng tại các nước đang phát triển do tăng tuổi thọ, tăng đô thị hóa và áp dụng lối sống phương Tây.
Mặc dù việc làm giảmmột số nguy cơ có thể đạt được với công tác phòng chống thì các chiến lược này không thể loại bỏ phần lớn các bệnh ung thư vú phát triển ở các nước có mức thu nhập thấp và thu nhập trung bình-những nơi mà ung thư vú được chẩn đoán ở giai đoạn rất muộn vì vậy phát hiện sớm để cải thiện kết quả ung thư vú và sự sống còn vẫn là yếu tố nền tảng của việc kiểm soát bệnh ung thư vú. Nơi có nguồn lực hạn chế với các hệ thống y tế yếu kém , nơi có tỷ lệ ung thư vú là tương đối thấp và đa số phụ nữ được chẩn đoán ở giai đoạn cuối phải chọn lựa việc thực hiện các chương trình chẩn đoán sớm dựa trên nhận thức về các dấu hiệu và các triệu chứng sớm và chuyển kịp thời đến các trung tâm chẩn đoán và điều trị.
 |
| Hình ảnh chụp nhũ ảnh tầm soát ung thư vú |
Tầm soát ung thư vú
Tầm soát ung thư dựa vào quần thể là một công việc y tế công cộng phức tạp hơn nhiều để có chẩn đoán sớm và thường là chi phí-hiệu quả khi thực hiện trong bối cảnh các chương trình tiêu chuẩn cao mà mục tiêu là tất cả quần thể có nguy cơ trong một khu vực địa lý nhất định với gánh nặng ung thư đặc biệt cao, với tất cả mọi người nhận được một phần sự cung cấp cùng một mức độ dịch vụ về sàng lọc, chẩn đoán và điều trị. Cho đến nay chỉ có phương pháp tầm soát ung thư vú đã được chứng minh có hiệu quả là sàng lọc bằng chụp nhũ ảnh. Sàng lọc chụp nhũ ảnh là rất tốn kém và là chi phí-hiệu quả và có tính khả thi ở các nước có cơ sở hạ tầng y tế tốt có thể đủ khả năng cho một chương trình sàng lọc dựa trên quần thể được tổ chức trong dài hạn. Phương pháp sàng lọc chi phí thấp, chẳng hạn như khám vú lâm sàng, có thể được thực hiện ở những nơi có nguồn lực hạn chế khi chứng cứ cần thiết từ các nghiên cứu liên tục trở nên có sẵn. Nhiều nước có mức thu nhập thấp và thu nhập trung bình phải đối mặt với gánh nặng kép của ung thư cổ tử cung và ung thư vú cần phải thực hiện các biện pháp can thiệp chi phí hiệu quả và giá cả phải chăng kết hợp để giải quyết những căn bệnh có thể phòng ngừa cao này. WHO thúc đẩy kiểm soát ung thư vú trong bối cảnh của các chương trình kiểm soát ung thư quốc gia và lồng ghép với công tác phòng chống bệnh không lây nhiễm.
Thông điệp chính (Key message): Phát hiện sớm để cải thiện kết quả ung thư vú và sự sống còn vẫn là yếu tố nền tảng trong việc kiểm soát bệnh ung thư vú.
nhất định tới khả năng gây ra ung thư vú. Ước tính, cứ 8 người phụ nữ thì lại có 1 người có nguy cơ mắc loại ung thư này.
 |
| Ung thư vú phát triển qua 5 giai đoạn: 0, I, II, III, IV. Càng phát hiện sớm bao nhiêu thì càng có khả năng chữa trị thành công bấy nhiêu |
Gánh nặng do ung thư vú (Breast cancer burden)
Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ cả ở các nước phát triển và kém phát triển. Người ta ước tính rằng trên toàn thế giới hơn 508 000 phụ nữ đã chết vào năm 2011 vì bệnh ung thư vú (ước tính sức khỏe toàn cầu, WHO-2013). Mặc dù ung thư vú được coi là một căn bệnh của các nước phát triển nhưng gần 50% các trường hợp ung thư vú và 58% các ca tử vong xảy ra ở các nước kém phát triển (GLOBOCAN 2008). Tỷ lệ mắc khác nhau rất nhiều trên toàn thế giới từ 19,3 trên 100.000 phụ nữ ở Đông Phi tới 89,7 trên 100.000 phụ nữ ở Tây Âu. Hầu hết các khu vực đang phát triển tỷ lệ mắc là dưới 40 trên 100.000 (GLOBOCAN 2008). Tỷ lệ mắc thấp nhất được tìm thấy trong hầu hết các nước châu Phi nhưng ở đây tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú cũng đang gia tăng. Tỷ lệ sống sót do ung thư vú cũng khác nhau rất nhiều trên toàn thế giới, dao động từ 80% hay lớn hơn ở Bắc Mỹ, Thụy Điển và Nhật Bản tới khoảng 60% ở các nước thu nhập trung bình và dưới 40% ở các nước có thu nhập thấp (Coleman et al., 2008). Tỷ lệ sống sótthấp ở các nước kém phát triển có thể được giải thích chủ yếu do thiếu các chương trình phát hiện sớm, dẫn đến một tỷ lệ cao phụ nữ có biểu hiện bệnh ở giai đoạn cuối, cũng như bởi sự thiếu các cơ sở chẩn đoán và điều trị đầy đủ.
Thông điệp chính (Key message):Ung thư vú là loại ung thư hàng đầu ở phụ nữ trên toàn thế giới và ngày càng tăng đặc biệt là ở các nước đang phát triển, nơi phần lớn các trường hợp được chẩn đoán ở giai đoạn muộn.
|
| Sự tàn phá của ung thư vú giai đoạn muộn |
Giai đoạn cuối cùng của ung thư vú là giai đoạn IV được phát hiện vào thời điểm này bị coi là rất muộn vì sẽ không thể chữa trị hoàn toàn nữa, tế bào ung thư đã lây lan sang các bộ phận quan trọng khác của cơ thể như não, xương, phổi và gan. Tuy nhiên, với sự tiến bộ của khoa học ngày nay, bệnh nhân nếu điều trị tốt vẫn có thể kéo dài cuộc sống của mình và coi ung thư vú như một căn bệnh mãn tính khác.
Các yếu tố nguy cơ gây ung thư vú (Breast cancer risk factors)
Một số yếu tố nguy cơ ung thư vú đã được ghi nhận tốt, tuy nhiên đối với đa số phụ nữ có biểu hiện bệnh ung thư vú mà không thể xác định các yếu tố nguy cơ đặc hiệu (IARC, 2008; Lacey et al., 2009). Một tiền sử gia đình bị ung thư vú làm tăng nguy cơ của một yếu tố tới hai hoặc ba lần. Một số đột biến, đặc biệt trong gen BRCA1, BRCA2 vàp53 dẫn đến một nguy cơ rất cao về ung thư vú. Tuy nhiên, những đột biến này là hiếm gặp và chiếm một phần nhỏ trong tổng gánh nặng về bệnh ung thư vú. Các yếu tố sinh sản gắn liền với phơi nhiễm kéo dài tới estrogen nội sinh, chẳng hạn như kinh nguyệt sớm, thời kỳ mãn kinh muộn , lớn tuổi khi sinh con đầu tiên là một trong những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với ung thư vú. Kích thích tố ngoại sinh cũng gây ra một nguy cơ cao bị ung thư vú. Các biện pháp tránh thai và liệu pháp thay thế hormone bằngđường uống có nguy cơ cao hơn so với người không sử dụng. Cho con bú có tác dụng bảo vệ (IARC, 2008, Lacey et al., 2009). Sự đóng góp của các yếu tố nguy cơ có thể chỉnh sửakhác nhau, loại trừ các yếu tố sinh sản, tới gánh nặng ung thư vú tổng thể đã được tính toán bởi Danaei và cộng sự. (Danaei et al., 2005). Họ kết luận rằng 21% của tất cả các ca tử vong do ung thư vú trên toàn thế giới là do sử dụng rượu, thừa cân và béo phì và ít vận động. Tỷ lệ này cao hơn ở các nước có thu nhập cao (27%), và yếu tố đóng góp quan trọng nhất là thừa cân và béo phì. Ở các quốc gia có mức thu nhập thấp và thu nhập trung bình thì tỷ lệ ung thư vú do các yếu tố nguy cơ này là 18%, và ít vận động là yếu tố quyết định quan trọng nhất (10%). Sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh ung thư vú giữa các nước phát triển và đang phát triển một phần có thể được giải thích bởi các ảnh hưởng do chế độ ăn uống kết hợp với việc sinh con đầu tiên muộn, sự bình đẳng thấp hơn, và cho con bú ngắn hơn (Peto, 2001). Việc áp dụng ngày càng tăng lối sống phương Tây ở các nước có mức thu nhập thấp và thu nhập trung bình là một nhân tố quan trọng trong việc tăng tỷ lệ ung thư vú ở các nước này.
Phòng chống ung thư vú (Breast cancer control)
WHO thúc đẩy việc kiểm soát ung thư vú trong bối cảnh các chương trình kiểm soát ung thư quốc gia toàn diện được lồng ghép với các bệnh không lây nhiễm và các vấn đề khác có liên quan. Kiểm soát ung thư toàn diện liên quan đến việc phòng ngừa, phát hiện sớm, chẩn đoán và điều trị, phục hồi chức năng và chăm sóc giảm nhẹ. Nâng cao nhận thức công chúng về vấn đề ung thư vú và các cơ chế để kiểm soát cũng như ủng hộ cho các chính sách và chương trình phù hợp là các chiến lược quan trọng trong việc kiểm soát ung thư vú dựa vào quần thể. Nhiều nước có mức thu nhập thấp và thu nhập trung bình hiện nay phải đối mặt với gánh nặng kép của ung thư vú và ung thư cổ tử cung mà chúng là đại diện là những kẻ giết người do bệnh ung thư hàng đầu ở phụ nữ trên 30 tuổi. Những quốc gia này cần phải thực hiện các chiến lược kết hợp để giải quyết cả hai vấn đề sức khỏe cộng đồng một cách hiệu lực và hiệu quả.
Dự phòng (Prevention)
Kiểm soát các yếu tố nguy cơ ung thư vú có thể chỉnh sửa đặc hiệu cũng như phòng chống lồng ghép hiệu quả của các bệnh không lây nhiễm như khuyến khích chế độ ăn uống lành mạnh, hoạt động thể chất và kiểm soát việc uống rượu, thừa cân và béo phì, cuối cùng có thể có tác động trong việc làm giảm tỷ lệ ung thư vú trong dài hạn.
Phát hiện sớm (Early detection)
Mặc dù việc làm giảm một số nguy cơ có thể đạt được bởi công tác phòng chống thì các chiến lược này không thể loại bỏ phần lớn các bệnh ung thư vú phát triển ở các nước có mức thu nhập thấp và thu nhập trung bình. Vì vậy, phát hiện sớm để cải thiện kết quả ung thư vú và sự sống còn vẫn là yếu tố nền tảng trong việc kiểm soát bệnh ung thư vú (Anderson et al., 2008). Có hai phương pháp phát hiện sớm: (i) Chẩn đoán sớm hoặc nhận thức về các dấu hiệu và triệu chứng sớm trong các quần thể có triệu chứng để thúc đẩy chẩn đoán sớm và điều trị sớm (ii) Sàng lọc đó là ứng dụngmột test sàng lọc mang tính hệ thống trong một quần thểkhông triệu chứng có thể đoán chừng. Nó nhằm mục đích xác định các cá nhân có một sự bất thường gợi ý bị ung thư. Một chương trình sàng lọc là một công việc phức tạp hơn nhiều một chương trình chẩn đoán sớm. (WHO, 2007). Không kể đến phương pháp phát hiện sớm được sử dụng, trung tâm cho sự thành công của việc phát hiện sớm dựa vào quần thể là kế hoạch cẩn thận và một chương trình được tổ chức tốt và bền vững mà mục tiêu là nhóm quần thể đúng và đảm bảo sự phối hợp, liên tục và chất lượng của các hành động trên sự chăm sóc toàn bộ liên tục. Nhắm mục tiêu các nhóm tuổi sai, chẳng hạn như, phụ nữ trẻ hơn và ít có nguy cơ ung thư vú, có thể gây ra một số lượng ung thư vú thấp hơn được phát hiện ở mỗi phụ nữ được sàng lọc và do đó giảm tính chi phí-hiệu quả của nó. Ngoài ra, nhắm mục tiêu vào phụ nữ trẻ sẽ dẫn đến đánh giá các khối u lành tính nhiều hơn, gây ra tình trạng quá tải không cần thiết tại các cơ sở y tế do việc sử dụng các nguồn lực chẩn đoán bổ sung (Yip et al., 2008).
Chẩn đoán sớm (Early diagnosis)
Chẩn đoán sớm vẫn là một chiến lược phát hiện sớm rất quan trọng, đặc biệt là ở các nước có mức thu nhập thấp và thu nhập trung bình những nơi mà bệnh được chẩn đoán ở giai đoạn cuối và các nguồn lực rất hạn chế. Có một số bằng chứng cho thấy chiến lược này có thể tạo ra"một sự giảm thấp được dàn dựng" (tăng tỷ lệ ung thư vú được phát hiện ở giai đoạn sớm) của bệnh đến các giai đoạn thuận lợi hơn để điều trị bệnh (Yip et al., 2008).
Nhũ ảnh là hình ảnh X quang tuyến vú được sử dụng để tầm soát ung thư vú và là một trong những phương pháp đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện sớm ung thư vú và giúp làm giảm tỉ lệ tử vong do ung thư vú.
Sàng lọc bằng chụp nhũ ảnh (Mammography screening)
Sàng lọc chụp nhũ ảnh là phương pháp sàng lọc duy nhất đã được chứng minh là có hiệu quả, mặc dù có bằng chứng rằng các chương trình tầm soát nhũ ảnh dựa vào quần thể được tổ chức tốt có thể làm giảm tỷ lệ tử vong ung thư vú khoảng 20% ở nhóm được sàng lọc so với nhóm chưa được sàng lọc ở tất cả các nhóm tuổi, thì nói chung dường như có một sự cân bằng chật hẹp các lợi ích so với các tác hại, đặc biệt ở phụ nữ trẻ và phụ nữ lớn tuổi. Có sự không chắc chắn về mức độ trầm trọng của các tác hại - đặc biệt là chẩn đoán quá mức và điều trị quá liều. Sàng lọc chụp nhũ ảnh là rất phức tạp và chuyên sâu và không có nghiên cứu về tính hiệu quả của nó được thực hiện ở nơi có nguồn lực thấp.
Tự khám vú (Breast self examination-BSE)
Không có bằng chứng về hiệu quả của sàng lọc thông qua tự kiểm tra vú (BSE). Tuy nhiên, việc thực hành BSE đã được nhìn thấy làtrao quyền cho phụ nữ, chịu trách nhiệm về sức khỏe của chính họ. Do đó, BSE được khuyến nghị nhằm nâng cao nhận thức ở phụ nữ có nguy cơ chứ không phải là một phương pháp sàng lọc.
Kiểm tra lâm sàng vú (Clinical Breast Examination -CBE)
Nghiên cứu đang được tiến hành để đánh giá CBE như một cách tiếp cận chi phí thấp trong tầm soát ung thư vú mà có thể hiệu quả ở các nước ít giàu. Kết quả ban đầu đầy hứa hẹn cho thấy tỷ lệ mắc chuẩn hóa theo tuổi cho giai đoạn tiến triển bệnh ung thư vú là thấp hơn ở nhóm được tầm soát so với nhóm không được tầm soát (Sankaranarayanan, 2011).
Tài liệu tham khảo (References)
1.Anderson BO et al. (2008). Guideline implementation for breast healthcare in low-income and middle-income countries: overview of the Breast Health Global Initiative Global Summit 2007.Cancer, 113, 2221–43.
2.Coleman MP et al. (2008). Cancer survival in five continents: a worldwide population-based study (CONCORD).Lancet oncol, 9, 730–56.
3.Danaei G et al. (2005). Causes of cancer in the world: comparative risk assessment of nine behavioural and environmental risk factors.Lancet, 366, 1784–93.
4.Sankaranarayanan R, Ramadas K, Thara S et al. (2011). Clinical breast examination: preliminary results from a randomized controlled trial in India. Journal of the National Cancer Institute, 103:1476-1480
5.IARC (2002).Breast cancer screening, IARC handbooks for cancer prevention, volume 7, Lyon, International Agency for Research on Cancer, IARCpress.
6.IARC (2008).World cancer report 2008. Lyon, International Agency for Research on Cancer.
7.Lacey JV Jr. et al. (2009). Breast cancer epidemiology according to recognized breast cancer risk factors in the Prostate, Lung, Colorectal and Ovarian (PLCO) Cancer Screening Trial Cohort.BMC Cancer, 9, 84.
8.Peto J. (2001). Cancer epidemiology in the last century and the next decade.Nature, 411, 390–5.
9.Yip CH et al. (2008). Guideline implementation for breast healthcare in low- and middle-income countries: early detection resource allocation.Cancer, 113, 2244–56.
10.WHO (2007).Cancer control: knowledge into action: WHO guide for effective programmes: early detection.
11.WHO (2008).The global burden of disease: 2004 update.