Cúm gia cầm (AI) là một bệnh nhiễm virus của chim (đặc biệt ở các loài chim nước hoang dại như vịt trời và ngỗng) thường gây ra các dấu hiệu bệnh không rõ ràng. Cúm gia cầm một đôi khi lan đến gia cầm nuôi và gây ra các vụ dịch nghiêm trọng trên diện rộng.
Một số loài cúm gia cầm này cũng được báo cáo là vượt qua rào cản của loài và gây bệnh hay các nhiễm trùng chưa có biểu hiện lâm sàng ở người và các động vật có vú khác. Virus cúm gia cầm được phân thành hai nhóm dựa trên khả năng gây bệnh trên gia cầm: độc lực cao và độc lực thấp. Virut độc lực cao dẫn đến tỷ lệ tử vong cao ( có tới 100% tử vong trong vòng 48 giờ) ở một số loài gia cầm. Virus có độc lực thấp cũng gây ra dịch ở gia cầm nhưng nói chung không gây ra các bệnh cảnh lâm sàng trầm trọng.
Một số nét về cúm A H5N1
Virus cúm A H5N1- một loài virus có độc lực cao- đầu tiên người bị nhiễm vào năm 1997 ở Hồng kông, Trung Quốc. Nó tái diễn và lan rộng vào các năm 2003 và 2004, virus cúm gia cầm này đã lan truyền từ Châu Á tới Châu Âu và Châu Phi và liên quan chặt chẽ ở gia cầm trong một số quốc gia, dẫn đến hàng triệu gia cầm bị nhiễm bệnh, hàng trăm ca bệnh ở người, và nhiều người chết. Dịch ở gia cầm tác động nghiêm trọng đến kế sinh nhai, kinh tế và thương mại quốc tế ở các quốc gia bị ảnh hưởng. Sự lưu hành của virus H5N1 tiếp tục ở gia cầm, đặc biệt khi bệnh lưu hành địa phương, đe doạ đối với sức khoẻ cộng đồng bởi vì các virus này có tiềm năng gây ra bệnh trầm trọng ở người và có thể là tiềm năng chuyển đổi thành một thể có khả năngchuyển giao từ người sang người. Các typ virus gia cầm khác cũng lưu hành ở gia cầm và các động vật khác, và cũng có thể đe doạ tiềm tàng với sức khoẻ con người
Nhiễm virus cúm gia cầm H5N1 và các đặc trưng lâm sàng ở người.
Tỷ lệ tử vong do cúm H5N1 ở người là cao hơn nhiêu so với nhiễm cúm mùa, đặc trưng lâm sàng ở nhiều bệnh nhân, bệnh gây ra bởi nhiễm cúm A H5N1 theo sau một diễn biến lâm sàng bất thường và nặng, với tình trạng xấu nhanh và tử vong cao. Cũng giống như nhiều bệnh mới nỗi, có ít hiểu biết về cúm A H5N1 ở người Thời gian ủ bệnh của cúm A H5N1 có thể dài hơn thời gian ủ bệnh của các cúm mùa bình thường, khoảng từ 2 đến 3 ngày. Các dữ liệu hiện nay đối với nhiễm cúm A H5N1 chứng tỏ thời gian ủ bệnh giới hạn từ 2 đến 8 ngày và có thể dài đến 17 ngày. Tổ chức Y tế thế giới hiện nay khuyến cáo một thời gian ủ bệnh 7 ngày được dùng để điều tra thực địa và để giám sát các ca tiếp xúc với bệnh nhân. Các triệu chứng ban đầu bao gồm sốt cao, thông thường nhiệt độ cao trên 38oC, và các triệu chứng giống cúm khác. Ỉa chảy, nôn mửa, đau bụng, đau ngực, và chảy máu từ mũi và lợi cũng được báo cáo là những triệu chứng sớm ở một số bệnh nhân. Một đặc trưng được nhìn thấy trong nhiều bệnh nhân là phát triểnđường hô hấp dưới sớm khi bị bệnh. Trên chứng cứ hiện tại một sự khó thở phát triển khoảng 5 ngày sau các triệu chứng đầu tiên. Truỵ hô hấp, giọng khàn và ran vỡ ở thì hít vào là phổ biến. Sản lượng đàm là thay đổi và đôi khi có máu.
Điều trị thuốc kháng virus
Chứng cứ đề nghị rằng một số thuốc kháng virus, được chú ý như oseltamivir, có thể làm giảm thời gian nhân lên của virus và cải thiện tình trạng sống sót. Trong các ca nghi ngờ, oseltamivir được kê đơn càng sớm càng tốt ( thực ra, trong vòng 48 giờ sau khi khởi phát triệu chứng) để tăng cường tối đa ích lợi của liệu pháp. Tuy nhiên,có một tỷ lệ tử vong hiện nay có ý nghĩa liên quan đến nhiễm cúm A H5N1 và sự nhân lên của virus kéo dài trong bệnh này, sử dụng thuốc phải được cân nhắc ở những bệnh nhân biểu hiện chậm trong diễn tiến của bệnh.
Đối với những bệnh nhân H5N1 trầm trọng hay ở bệnh nhân H5N1 có các triệu chứng đường ruột trầm trọng, sự hấp thụ thuốc có thể kém. Khả năng này phải được cân nhắc khi xử trí các bệnh nhân này.
Các yếu tố nguy cơ lây nhiễm ở người.
Nguy cơ đầu tiên xuất hiện đối với nhiễm ở người là do phơi nhiễm trực tiếp hoặc gián tiếp đến các gia cầm sống hay chết bị nhiễm bệnh hay môi trường bị ô nhiễm. Khống chế sự lưu hành virus H5N1 ở gia cầm là quan trọng để làm giảm nguy cơ nhiễm bệnh đối với người. Để kiểm soát sự dai dẵng của virus H5N1, việc khống chếđòi hỏi cam kết trong một thời gian dài từ các quốc gia và sự hợp tác chặt chẽ giữa ngành thú y và ngành y tế. Không có bằng chứng để nói rằng virus H5N1 có thể truyền sang người thông qua các thịt gia cầm hay trứng đã được chế biến hợp lý. Một số ca bệnh ở người là có mối liên hệ đến việc tiêu thụ tiết canh, hay các thịt chưa được nấu chín. Tuy nhiên, giết mổ gia cầm, cầm xác súc vật bị nhiễm bệnh,và chế biến thịt gia cầm cho việc tiêu thụ, đặc biệt ở trong hộ gia đình, có vẻ chắc là những yếu tố nguy cơ.
Đe doạ đại dịch ở người.
Đại dịch cúm ( vụ dịch mà ảnh hưởng đến một số lượng lớn người trên thế giới) là không được dự báo nhưng các sự kiện tái diễn có thể gây hậu quả đến sức khoẻ, kinh tế và xã hội trên thế giới.Một đại dịch cúm xảy ra khi bao gồm các yếu tố cốt lõi: một virus cúm nổi lên có khả năng lan truyền bệnh hằng định từ người sang người, và không có miễn dịch hay miễn dịch thấp trong hầu hết mọi người. Trong một thế giới kết nối hôm nay, một vụ dịch địa phương có thể chuyển thành một đại dịch nhanh chóng mà không có đủ thời gian để chuẩn bị một đáp ứng y tế công cộng đểlàm ngừng sự lan truyền của bệnh. Cúm A H5N1 vẫn còn là một trong các cúm gia cầm có tiềm năng đại dịch bởi vì nó tiếp tục lưu hành rộng rãi trong quần thể gia cầm, hầu hết mọi người không có miễn dịch với nó và nó có thể gây ra bệnh trầm trọng và chết người. Thêm vào với cúm A H5N1, các typ virus cúm A động vật khác đã có báo cáo người bị nhiễm bệnh bao gồm cúm A H7 và H9, và virus lợn H1 và H3. Virus H2 cũng có thể đe doạ đại dịch. Do đó, kế hoạch đại dịch phải được cân nhắc các nguy cơ khẩn cấp đối với một số typ cúm từ một loạt nguồn.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới.
Cơ quan thú y và quốc gia và cục quản lý sức khoẻ động vật là những đơn vị chịu trách nhiệm chính cho việc phòng và chống các bệnh ở động vật, bao gồm cúm. Tổ chức y tế thế giới, Tổ chức sức khoẻ động vật thế giới , và Tổ chức lương nông quốc tế cùng hợp tác thông qua một loạt cơ chế để theo dõi và đánh giá nguy cơ từ cúm động vật có liên quan đến sức khoẻ, và giải quyết các nguy cơ này ở cả người và động vật bất kể nơi đâu trên thế giới mà dịch bệnh có thể xảy ra.