Theo Tân Hoa Xã, loài côn trùng đốt máu và gây ra hai trường hợp tử vong ở Phật Sơn, Quảng Đông, Trung Quốc vừa qua đã được xác định do loài mò Leptotrombidium là vật truyền bệnh, nó còn được gọi là mò Trombicula. Một số cơ quan thông tin, báo chí đã đưa tin loài côn trùng truyền bệnh tại đây là loài “bọ xít độc”, tiếp tục gây hoang mang cho người dân trước tình hình bọ xít hiện diện ở một số địa phương tại nước ta. Đừng nhầm lẫn “mò” là “bọ xít độc” vì loài mò đốt máu truyền bệnh sốt mò đã được xác định.
Đặc điểm chính của loài mò
Mò họ Trombiculidae, thuộc bộ ve bét Acariformes. Trên thế giới đã phát hiện hơn 3.000 loài, trong đó có 19 loài truyền bệnh sốt mò. Bệnh sốt mò còn được gọi là bệnh sốt phát ban Tsutsugamushi, sốt triền sông Nhật Bản, sốt phát ban bụi rậm... do loại mầm bệnh Rickettsia tsutsugamushi, còn gọi là Rickettsia orientalis gây nên và phân bố ở nhiều nơi trên thế giới. Mò thường ký sinh ở các loài vật nhỏ, chủ yếu là chuột; một số ở chim, gà và loại bò sát. Chỗ bị mò đốt máu thường gây triệu chứng ngứa và dị ứng. Ở Việt Nam đã phát hiện hơm 106 loài mò, trong đó có 17 loài đặc trưng cho khu hệ mò tại Việt Nam. Có 5 loài mò trong số 19 loài đã được xác định có vai trò truyền bệnh sốt mò trên thế giới.
Mò có thân dính liền thành một khối, có đầu giả và tấm khiên ở mặt lưng. Mò trưởng thành và thanh trùng có 8 chân, trên thân phủ đầy lông, kích thước khoảng 1 - 1,25 mm. Ấu trùng mò có 6 chân, kích thước lúc đói khoảng 0,25 – 0,5 mm; lúc no kích thước có thể tăng gấp đôi. Thân ấu trùng mò hình bầu bục, có nhiều lông, mặt lưng có một khiên, hình dạng khiên biến đổi tùy theo từng loài và có 4 cạnh, 5 cạnh hoặc 6 cạnh. Màu sắc của mò cũng khác nhau như màu vàng, đỏ, trắng...
Cả mò trưởng thành và thanh trùng đều không đốt máu người và động vật. Chúng sống trong đất và ăn các loài côn trùng nhỏ, các loài bét và trứng bét khác. Ấu trùng mò thường chích đốt máu ở da. Trứng mò sau khi nở ra ấu trùng, nó bò lên cỏ hoặc bụi cây thấp, đám lá mục để đợi người hay động vật khác đi qua. Khi có người, các loài bò sát, chim, thú... đi qua hoặc nghỉ lại nơi chúng sống, ấu trùng mò đeo bám chặt vào da và chích đốt máu. Ở người, mò chọn nơi bám để hút máu là chỗ quần áo bó sát vào da, thắt lưng, nơi kín, mí mắt... Thời gian ấu trùng mò bám vào da vật chủ để hút máu khoảng từ 2 ngày đến 1 tháng tùy theo từng loài. Sau khi đốt no máu, chúng rơi xuống, chui vào đất, phát triển thành thanh trùng và mò trưởng thành.
 |
Bức ảnh loài "dạng trùng" với tên khoa học là Leptotrombidium akamushi đăng trên THX. |
Mò phân bố rải rác trong những vùng đất nhỏ vì nhu cầu riêng của chúng. Thanh trùng và mò trưởng thành cần có điều kiện nhất định thích hợp để sống, còn ấu trùng cần có những động vật làm vật chủ như chuột hoang, các loài gặm nhấm nhỏ và chim. Nơi thích hợp cho mò trưởng thành sinh trưởng là các đồng cỏ, những vùng cây bụi, rừng, đồng lúa tốt tươi và cánh rừng đã bị phát quang. Mò còn thấy ở cả những công viên, vườn, bãi cỏ và các nơi ẩm ướt dọc theo bờ hồ, bờ suối... Ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, những bụi tre là nơi mò rất ưa thích sinh sống.
Việt Nam đã phát hiện hơn 106 loài mò thuộc 23 chi ở 2 phân họ của họ mò Trombiculidae. Số lượng tập trung chủ yếu ở 2 chi Leptotrombidium với 28 loài và Gahrliepia với 20 loài. Trong số 106 loài mò đã phát hiện, mới chỉ xác định loài mò đỏ Leptotrombidium deliense là vật trung gian có khả năng truyền bệnh sốt mò cho người.
Nhận diện loài mò đỏ Leptotrombidium deliense
Mò phát triển qua 4 giai đoạn: trứng, ấu trùng, thanh trùng và con trưởng thành. Thanh trùng và mò trưởng thành sống tự do, nó ăn thực vật rữa nát hoặc trứng các loại côn trùng nhỏ khác. Chỉ có ấu trùng mò mới sống ký sinh hút máu, dịch mô hoặc tổ chức bị phá hủy và có khả năng ký sinh rất lâu, có thể từ 2 ngày đến 2 tháng.
Ấu trùng mò Leptotrombidium deliense có thân hình trứng, màu đỏ, khiên nằm ở phía trước thân. Khiên có hình chữ nhật, cạnh trước hơi lõm, cạnh sau hình cung. Trên khiên có 5 lông, trong đó 4 lông mọc ở 4 góc và 1 lông nằm ở giữa cạnh trước. Ngoài ra còn có 2 lông cảm giác, ngọn lông có phân nhánh. Mặt lưng có 28 lông xếp thành 6 hàng có thứ tự từ trên xuống dưới là: 2 - 8 - 6 - 6 - 4 - 2. Hai bên khiên có mắt. Mặt bụng có từ 18 - 20 lông.
Để hút no máu, ấu trùng mò Leptotrombidium deliense cần trung bình khoảng từ 2 đến 6 ngày. Sau khi đốt no máu, ấu trùng rơi xuống đất, chui xuống mùn xốp. Khoảng 12 ngày sau, ấu trùng lột xác thành thanh trùng. Sau khoảng 30 ngày, thanh trùng lột xác và phát triển thành mò trưởng thành. Ở nhiệt độ 22 - 30oC và độ ẩm 100%, thời gian hoàn thành vòng đời của mò mất khoảng 3 tháng. Ấu trùng mò sống được khoảng 9 tháng.
Vai trò truyền bệnh và cách phòng chống
Ấu trùng mò ký sinh, đốt máu và gây ngứa, khó chịu, tạo vết loét dễ gây nhiễm trùng. Vết loét có thể kéo dài từ 2 đến 3 tháng mới khỏi. Mò có vai trò truyền bệnh do hút máu các động vật mang mầm bệnh trong tự nhiên như chuột, các thú nhỏ... và truyền sang cho người. Mầm bệnh Rickettsia ở mò tập trung tại tuyến nước bọt, khi đốt máu nó có thể truyền sang người để gây bệnh. Khi mò đã bị nhiễm mầm bệnh, nó sẽ mang mầm bệnh Rickettsia trong suốt quá trình phát triển từ giai đoạn thanh trùng cho đến mò trưởng thành, kể cả truyền sang trứng và thế hệ sau. Thậm chí có thể truyền mầm bệnh cho cả các mò tự do khác sống tự do, ăn trứng và những côn trùng nhỏ.
Mò truyền bệnh sốt mò Tsutsugamushi, còn gọi là bệnh sốt triền sông Nhật Bản, sốt phát ban bụi rậm... Mầm bệnh là Rickettsia tsutsugamushi, còn được gọi là Rickettsia orientalis. Khi bị mắc bệnh, triệu chứng lâm sàng thường biểu hiện sốt cao, nhức đầu, nổi hạch ở nách, bẹn gần chỗ mò đốt. Sau từ 4 đến 5 ngày sốt có nổi ban đỏ. Đôi khi bệnh diễn biến nặng, người bệnh có thể bị hôn mê và chết vào ngày thứ 9 đến ngày thứ 15 từ khi bệnh khởi phát. Sốt mò là loại bệnh có ổ bệnh thiên nhiên, mầm bệnh có thể được truyền cho cả thế hệ sau; nhờ vậy mò mới có khả năng truyền bệnh sốt mò vì cả đời mò chỉ ký sinh và hút máu chỉ một lần. Mò hút máu các động vật mang mầm bệnh trong tự nhiên như chuột, các thú nhỏ... và bị nhiễm mầm bệnh. Khi đã nhiễm mầm bệnh, mò có thể mang mầm bệnh suốt đời qua quá trình phát triển từ giai đoạn trứng đến giai đoạn trưởng thành. Nó cũng có thể truyền mầm bệnh cho mò trưởng thành sống tự do, truyền cho thế hệ sau qua trứng. Ở Việt Nam, nhiều ổ bệnh sốt mò đã được phát hiện suốt từ miền Bắc cho đến miền Nam như ở Sơn La, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Đồ Sơn, Tây Nguyên... Nguồn bệnh chủ yếu là chuột, vật môi giới truyền bệnh là loài mò Leptotrombidium deliense.
Phòng chống bệnh sốt mò bằng cách vệ sinh, phát quang quanh nhà ở, nơi tắm, các bến nước... Triệt phá ổ mò chung quanh làng bản, nơi đóng quân của bộ đội, thường xuyên diệt chuột là vật chủ của mò. Có thể dùng các loại hóa chất xua côn trùng như DMP, DETA bôi lên da nếu phải tiếp xúc với môi trường có mò hoạt động. Khi hành quân, lao động hoặc lúc nghỉ ngơi, không nên ngồi bệt xuống đất hay cỏ. Trong trường hợp cần thiết có thể phun hóa chất diệt côn trùng để diệt mò. Nếu bị mắc bệnh, dùng các loại kháng sinh thông thường như chlomycetin, doxycycline... có đáp ứng tốt với bệnh sốt mò.