Phòng chống bệnh sán máng (Schistosomiasis) trên thế giới
Cập nhật tháng 2/2014. WHO - Bệnh sán máng (Schistosomiasis) là một bệnh ký sinh trùng cấp tính và mãn tính gây ra bởi sán ở trong máu (giun sán) của giống Schistosoma. Ít nhất 249 triệu người cần được điều trị dự phòng trong năm 2012. Điều trị dự phòng (Preventive treatment) cần được lặp đi lặp lại trong một số năm sẽ làm giảm và phòng ngừa tỷ lệ mắc bệnh, điều trị dự phòng chống lại sự lan truyền bệnh sán máng có tác động về tỷ lệ mắc bệnh và sự lan truyền đã được báo cáo từ 78 quốc gia. Tuy nhiên, những khuyến nghị về điều trị dự phòng này nhằm vào các nhóm dân cư có nguy cơ cao nhất sống tại 52 quốc gia. Sự lan truyền (Transmission)Sự lan truyền sán máng xảy ra khi người bị ô nhiễm với nguồn nước ngọt với phân bài thải có chứa trứng của ký sinh trùng nở ra trong nước, người bị nhiễm bệnh khi các thể ấu trùng ký sinh trùng được thải ra bởi ốc nước ngọt thâm nhập qua da khi tiếp xúc với nước bị nhiễm khuẩn. Trong cơ thể, ấu trùng phát triển thành sán máng trưởng thành, sán trưởng thành sống trong các mạch máu tại đó những con cái đẻ trứng, một số trứng được thải ra khỏi cơ thể qua phân hoặc nước tiểu để tiếp tục vòng đời của ký sinh trùng, một số trứng khác bị mắc kẹt trong các mô cơ thể, gây ra phản ứng miễn dịch và gây thương tổn tiến triển cho các cơ quan. Dịch tể học (Epidemiology)Schistosomiais là phổ biến ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt là trong các cộng đồng nghèo khổ không được tiếp cận với nước sạch và vệ sinh môi trường, người ta ước tính rằng ít nhất 90% những người cần điều trị cho bệnh sán máng sống ở châu Phi. Có hai thể bệnh chính của bệnh sán máng-ruột và niệu sinh dục (intestinal and urogenital) được gây ra bởi 5 loài chính của sán trong máu (xem bảng).Table: Parasite species and geographical distribution of schistosomiasis | Species | Geographical distribution | Intestinal schistosomiasis | Schistosoma mansoni | Africa, the Middle East, the Caribbean, Brazil, Venezuela and Suriname | | Schistosoma japonicum | China, Indonesia, the Philippines | | Schistosoma mekongi | Several districts of Cambodia and the Lao People’s Democratic Republic | | Schistosoma guineensisand relatedS. intercalatum | Rain forest areas of central Africa | Urogenital schistosomiasis | Schistosoma haematobium | Africa, the Middle East |
| Loài | Sự phân bố về mặt địa lý | Sán máng ruột | Schistosoma mansoni | Châu Phi, Trung Đông, vùng Caribe, Brazil, Venezuela và Suriname | | Schistosoma japonicum | Trung quốc, Ấn độ, Philippine | | Schistosoma mekongi | Một số huyện ở Cambodia và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào | | Schistosoma guineensi và S. intercalatum | Vùng rừng mưa nhiệt đới của Trung Phi | Sán máng niệu-sinh dục | Schistosoma haematobium | Châu Phi, Trung Đông |
Bệnh sán máng chủ yếu ảnh hưởng đến các cộng đồng nghèo và nông thôn, đặc biệt người dân làm nông nghiệp và dân đánh bắt cá; phụ nữ làm việc nhà với nguồn nước bị nhiễm khuẩn, chẳng hạn như giặt quần áo cũng có nguy cơ; vệ sinh không đầy đủ và tiếp xúc với nước bị nhiễm bẩn làm cho trẻ em đặc biệt dễ bị lây nhiễm bệnh. Di cư đến các khu vực đô thị và sự di chuyển quần thể dân cư đưa bệnh đến các vùng đất mới, gia tăng quy mô dân số và nhu cầu tương ứng cho điện, nước thường dẫn đến các chương trình phát triển và thay đổi môi trường tạo điều kiện cho sư lan truyền. Với sự gia tăng du lịch sinh thái và du lịch "ra khỏi đường mòn" (off the beaten track), ngày càng có nhiều khách du lịch bị nhiễm bệnh sán máng, đôi khi khách du lịch có biểu hiện nhiễm trùng cấp tính nghiêm trọng và các vấn đề khác thường bao gồm liệt (paralysis). Bệnh sán máng niệu sinh dục cũng được coi là một yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV, đặc biệt là ở phụ nữ. Các triệu chứng (Symptoms) Các triệu chứng của bệnh sán máng là do phản ứng của cơ thể với trứng của giun, bệnh sán máng đường ruột có thể dẫn đến đau bụng, tiêu chảy và có máu trong phân. Gan to thường gặp ở những trường hợp nặng và thường kết hợp với sự tích tụ dịch trong khoang phúc mạc và tăng áp của các mạch máu vùng bụng. Trong những trường hợp như thế này cũng có thể có lách to.Dấu hiệu cổ điển của bệnh sán máng niệu sinh dục là đái ra máu (máu trong nước tiểu), xơ hóa của bàng quang và niệu quản (bladder and ureter) và tổn thương thận (kidney damage) đôi khi được chẩn đoán trong trường hợp nặng, ung thư bàng quang (bladder cancer) là một biến chứng có thể có trong các giai đoạn sau. Ở phụ nữ, bệnh sán máng niệu sinh dục có thể biểu hiện với các tổn thương bộ phận sinh dục (genital lesions), chảy máu âm đạo (vaginal bleeding), đau khi giao hợp (pain during sexual intercourse) và hạch ở âm hộ (nodules in the vulva). Ở nam giới, bệnh sán máng niệu sinh dục có thể gây ra bệnh lý của túi tinh (pathology of the seminal vesicles), tuyến tiền liệt (prostate) và các cơ quan khác. Bệnh này cũng có thể có những hậu quả dài hạn khác không thể hồi phục,bao gồm cả vô sinh (infertility).Ảnh hưởng về kinh tế và sức khỏe của bệnh sán máng là đáng kể. Ở trẻ em, bệnh sán máng có thể gây thiếu máu, còi cọc và giảm khả năng học tập, mặc dù những tác động này thường hồi phục với điều trị. Bệnh sán máng mãn tính có thể ảnh hưởng đến khả năng lao động và trong một số trường hợp có thể dẫn đến tử vong. Ở vùng cận Saharan châu Phi ước tính có hơn 200.000 trường hợp tử vong mỗi năm là do sán máng. Chẩn đoán (Diagnosis)Bệnh sán máng được chẩn đoán thông qua việc phát hiện trứng sán trong mẫu phân hoặc nước tiểu. Kháng thể và/hoặc kháng nguyên phát hiện trong máu hoặc nước tiểu cũng là dấu hiệu của nhiễm trùng. Với sán máng niệu sinh dục, một kỹ thuật lọc sử dụng nylon, giấy hoặc bộ lọc polycarbonate là kỹ thuật chẩn đoán tiêu chuẩn. Trẻ em bị nhiễm S. haematobium hầu như luôn luôn có máu trong nước tiểu khi soi bằng kính hiển vi và điều này có thể được phát hiện bởi các dải thuốc thử hóa học. Trứng của sán máng ruột có thể được phát hiện trong mẫu phân thông qua một kỹ thuật sử dụng cellophane nhuộm xanh methylene ngâm trong glycerine hoặc lam kính, được gọi là kỹ thuật Kato -Katz. Với những người sống trong khu vực không lưu hành hoặc có sự lan truyền thấp thì các test huyết thanh học và xét nghiệm miễn dịch có thể hữu ích trong việc chứng tỏ về tình trạng phơi nhiễm với bệnh cần phải kiểm tra, điều trị và theo dõi kỹ lưỡng. Phòng chống bệnh (Prevention and control)Phòng chống bệnh sán máng dựa trên điều trị quy mô lớn của các nhóm quần thể có nguy cơ, tiếp cận với nước sạch, cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường, giáo dục vệ sinh và phòng chống ốc sên. Chiến lược của WHO về phòng chống bệnh sán máng tập trung vào việc làm giảm bệnh thông qua điều trị định kỳ nhóm đích bằng Praziquantel. Điều này liên quan đến việc điều trị thường xuyên của tất cả mọi người của nhóm có nguy cơ, ở một số nước có sự lan truyền thấp nên đặt mục tiêu loại trừ căn bệnh này. Các nhóm đích điều trị là trẻ em ở độ tuổi học đường sống trong vùng lưu hành (school-aged children in endemic areas); người lớn được coi là có nguy cơ tại vùng lưu hành bệnh và những người có nghề nghiệp liên quan đến tiếp xúc với nước bị nhiễm khuẩn như ngư dân, nông dân, công nhân thủy lợi và phụ nữ làm việc nhà tiếp xúc với nước bị nhiễm khuẩn (adults considered to be at risk in endemic areas, and people with occupations involving contact with infested water, such as fishermen, farmers, irrigation workers, and women whose domestic tasks bring them in contact with infested water); toàn bộ cộng đồng sống ở các vùng lưu hành cao (entire communities living in highly endemic areas). Tần suất điều trị được xác định bởi sự phổ biến của nhiễm trùng ở trẻ em tuổi đi học, trong các khu vực có sự lan truyền cao, điều trị có thể phải được lặp đi lặp lại hàng năm cho một số năm, giám sát là cần thiết để xác định tác động của các can thiệp phòng chống. Mục đích làm giảm bệnh: điều trị định kỳ cho các quần thể có nguy cơ cao sẽ chữa trị các triệu chứng nhẹ và ngăn chặn những người bị nhiễm bệnh phát triển sang bệnh mãn tính nghiêm trọng, giai đoạn cuối. Tuy nhiên, một hạn chế lớn trong phòng chống bệnh sán máng là thiếu thuốc Praziquantel. Dữ liệu năm 2012 cho thấy chỉ 14,4 % số người cần điều trị đạt được. Praziquantel là thuốc điều trị được khuyến cáo đối với tất cả các thể của bệnh sán máng. Thuốc có hiệu quả, an toàn và chi phí thấp. Mặc dù sự tái nhiễm có thể xảy ra sau khi điều trị nhưng nguy cơ phát triển thành bệnh nặng được giảm bớt và thậm chí đảo ngược khi điều trị được bắt đầu và lặp đi lặp lại trong thời thơ ấu. Phòng chống bệnh sán máng đã được thực hiện thành công hơn 40 năm qua ở một số nước, trong đó có Brazil, Campuchia, Trung Quốc, Ai Cập, Mauritius và Saudi Arabia. Có bằng chứng cho thấy sự lan truyền bệnh sán máng đã được làm gián đoạn ở Ma-rốc. Ở Burkina Faso, Niger và Yemen, có thể mở rộng quy mô điều trị bệnh sán máng ở cấp quốc gia và có tác động đến bệnh trong một vài năm. Đánh giá về tình trạng lan truyền bệnh đang được thực hiện ở một số nước. Trong 10 năm qua, các chiến dịch có quy mô to lớn được thực hiện trong một số quốc gia vùng cận Saharan, nơi mà hầu hết những người có nguy cơ sinh sống. Trong năm 2012 các báo cáo về điều trị dự phòng bệnh sán máng đã nhận được từ 31 quốc gia. Số lượng người báo cáo đã được điều trị bệnh sán máng tăng 40% trong giai đoạn 2011- 2012- tới 42,1 triệụ. Xu hướng gia tăng số lượng người được điều trị cần phải được duy trì. Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới (WHO response) Nghiên cứu của WHO về bệnh sán máng là một phần của một cách tiếp cận lồng ghép trong phòng chống các bệnh nhiệt đới bị lãng quên (neglected tropical disease_NTDs). Mặc dù đa dạng về mặt y khoa, nhưng các bệnh nhiệt đới bị lãng quên chia sẻ các đặc trưng cho phép chúng tồn tại trong điều kiện nghèo đói, nơi chúng xuất hiện từng chùm và thường chồng chéo lẫn nhau. WHO điều phối các chiến lược của hóa trị liệu phòng ngừa tham khảo ý kiến với các trung tâm hợp tác và các đối tác từ các viện học thuật và nghiên cứu, khu vực tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan phát triển quốc tế và các tổ chức khác của Liên Hợp Quốc. WHO phát triển hướng dẫn kỹ thuật và các công cụ cho việc sử dụng bởi các chương trình phòng chống quốc gia. Làm việc với các đối tác và khu vực tư nhân, WHO ủng hộ việc tiếp cận với Praziquantel và các nguồn lực để thực hiện. Một số lượng đáng kể praziquantel dùng để điều trị hơn 100 triệu trẻ em trong độ tuổi học đường mỗi năm đã được cam kết bởi khu vực tư nhân và các đối tác phát triển.
|