|
(ảnh minh họa) |
Test chẩn đoán nhanh phát hiện bệnh sốt rét ở phụ nữ mang thai khi được sử dụng sớm
Ngày 15/1/2016. Malaria News-Test chẩn đoán nhanh phát hiện bệnh sốt rét ở phụ nữ mang thai khi được sử dụng sớm (Rapid diagnostic tests detect malaria in pregnant women when used early). Theo dữ liệu từ một thử nghiệm gần đây đã được công bố, test chẩn đoán nhanh (RDTs) có thể là một công cụ hiệu quả để phát hiện bệnh sốt rét ở phụ nữ mang thai trong các vùng lưu hành nhưng do giảm nhạy cảm với các lần thăm khám thai sau tại các cơ sở chăm sóc tiền sản, các nhà nghiên cứu đề xuất hạn chế việc sử dụng công cụ chẩn đoán này tại các lần thăm khám thai ban đầu để duy trì hiệu quả chi phí. Phương pháp tiếp cận mới cần thiết khi điều trị dự phòng ngừa mất đi hiệu quả (New approaches needed as preventive treatments lose strength) Đối với phụ nữ mang thai sống ở các quốc gia châu Phi lưu hành sốt rét, hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) khuyến cáo điều trị dự phòng bằng sulfadoxine-pyrimethamine tại mỗi lần khám thai sau ba tháng đầu của thai kỳ. Theo WHO, các phương pháp điều trị này đã được chứng minh là ngăn chặn ký sinh trùng ngoại vi, thiếu máu ở mẹ và sốt rét lâm sàng trong thời kỳ mang thai, và cũng có khả năng làm giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh nói chung. Tuy nhiên, Plasmodium falciparum kháng với sulfadoxine-pyrimethamine đang trở nên phổ biến hơn ở nhiều vùng bị ảnh hưởng do đó các nhà nghiên cứu viết nên gia tăng sự cần thiết về các chiến lược mới để hạn chế bệnh sốt rét trong thai kỳ. Các nhà nghiên cứu viết: "Sàng lọc và điều trị cách quãng cung cấp một phương pháp tiếp cận có thể để xử lý sốt rét trong thời kỳ mang thai trong một số tình huống dịch tễ học, tuy nhiên có những lo ngại rằng tình trạng nhiễm bệnh sốt rét hiện diện với mật độ quá thấp để được phát hiện với một RDT có thể có ảnh hưởng xấu đến kết quả của thời kỳ mang thai". Để đánh giá mức độ nhạy cảm của protein 2 giàu histidine/men lactate ký sinh trùng Histidine-Rich Protein 2/parasite lactate dehydrogenase (HRP2/pLDH) qua sàng lọc bằng RDT, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra mẫu và các dữ liệu thu được từ một thử nghiệm đa trung tâm lớn so sánh điều trị phòng ngừa sulfadoxine-pyrimethamine để sàng lọc và điều trị. Sự tham gia của người chữa con so và con rạ từ bốn quốc gia Tây Phi đã được sàng lọc với HRP2/pLDH RDT trong nhiều lần khám thai và điều trị bằng artemether-lumefantrine nếu dương tính với ký sinh trùng. Các nhà nghiên cứu đã tái kiểm tra các mẫu máu ở ngón tay được thu thập trong mỗi lần khám thai nhiễm sốt rét bằng cách sử dụng kính hiển vi và xét nghiệm PCR và so sánh những phát hiện này với các kết quả của RDT được báo cáo trong nghiên cứu ban đầu. Các nhà nghiên cứu cũng xem xét lại kết cục thai để xác định bất kỳ mối liên quan nào giữa nhiễm bệnh sốt rét bị bỏ sót và hậu quả bao gồm cân nặng sơ sinh thấp, nồng độ hemoglobin và nhiễm sốt rét ở nhau thai.
RDT chứng tỏ độ đặc hiệu được cải thiện khi lần khám đầu tiên (RDTs demonstrate improved specificity upon first clinic visit) Các nhà nghiên cứu viết tiếp, tỷ lệ bệnh sốt rét trong các nhóm đưa vào nghiên cứu được xác định bằng kính hiển vi hoặc PCR là 70% ở Burkina Faso, 58,6% ở Ghana, 35,9% ở Mali và 15,1% ở Gambia. Độ nhạy cảm chung của RDT là 87,4% (95% CI, 85,3% -89,4%) và 55,6% của tất cả các điểm RDT xảy ra trong lần viếng thăm đầu tiên tới một phòng khám thai. Độ nhạy dao động từ 90,9% ở Burkina Faso đến 59,3% ở Gambia và điều mà các nhà nghiên cứu đã viết là có thể gợi ý về một mối quan hệ tiềm năng giữa mật độ ký sinh trùng và độ đặc hiệu của RDT. Chỉ tính riêng phụ nữ ở Ghana, tỷ lệ nhiễm P. falciparum là cao nhất và độ nhạy của RDT là 88,8% tại các phòng khám thai đầu tiên, 83,7% vào lần khám thứ hai, 77,4% vào lần khám thứ ba và 48,6% tại thời điểm sinh con. Các nhà nghiên cứu thấy rằng không có mối liên quan giữa kết quả RDT và bất cứ kết cục sinh được đo lường, sau khi điều chỉnh các biến số thì yếu tố nguy cơ có thể nhận dạng duy nhất của việc nhiễm bệnh bị bỏ nhở khi mang thai đứa con thứ hai của một người phụ nữ trái ngược với mang thai lần đầu tiên của mình (OR = 1,85; 95% CI, 1-3,43). Tóm lại, những kết quả này đã dẫn các nhà nghiên cứu đề xuất sàng lọc bằng RDT và điều trị khi lần khám đầu tiên ở một phụ nữ mang thai như là một cách chi phí hiệu quả để phát hiện và điều trị nhiều lần bị nhiễm bệnh mà không gây ra các hậu quả nghiêm trọng cho đứa trẻ. Tuy nhiên, độ chính xác của test bị giảm tại các khu vực ít bị ảnh hưởng là một thiếu sót lớn cần điều tra thêm. "Độ nhạy thấp nhất của RDT thấy trong nghiên cứu này là tại các nơi có sự lan truyền thấp nhất, điều không rõ ràng là liệu điều này là một mối quan hệ nhân quả do mật độ ký sinh trùng trung bình thấp hơn hay không nhưng đây là một lời giải thích có thể cho sự quan sátnày", các nhà nghiên cứu cho biết: "Điều cũng không rõ ràng là nếu độ nhạy sẽ giảm hơn nữa trong quá trình mang thai tại các nơi có sự lan truyền thấp hơn và điều này cần phải được điều tra, khi tỷ lệ mắc sốt rét giảm ở nhiều khu vực lưu hành trước đây thì phương pháp tiếp cận mới để kiểm soát bệnh sốt rét trong thai kỳ cần phải được phát triển và đánh giá". Sàng lọc bằng RDT giúp kiềm chế sự kê đơn quá mức (RDT screening curbs overprescription) Dữ liệu trước đó cũng đã cho thấy tiềm năng của RDT trong viêc làm giảm chi phí ở các khu vực khác trong chăm sóc bệnh sốt rét. Trong một thử nghiệm khác được công bố gần đây, các nhà nghiên cứu đã cung cấp 10 cụm địa lý của các cửa hàng thuốc ở Uganda có đăng ký thuốc với sự hướng dẫn RDTs chỉ cung cấp liệu pháp kết hợp artemisinin (ACTs) khi kết quả dương tính.Nhóm chứng, cũng bao gồm 10 cụm, điều trị bệnh nhân bị sốt và điều trị dự phòng bởi ACT. Tổng cộng, 15.517 bệnh nhân đủ điều kiện bị sốt tìm cách điều trị từ 59 cửa hàng thuốc trong nhóm nghiên cứu và được đưa vào nghiên cứu. Gần 60% bệnh nhân đã mua một RDT đã có kết quả xét nghiệm dương tính, và con số đó đã được xác nhận bởi các nhà nghiên cứu là chính xác đến 95%. Tất cả trừ 1,5% bệnh nhân có kết quả RDT âm tính tôn trọng kết quả và không nhận ACT. Khi so sánh với nhóm chứng, đơn thuốc ACT đã giảm đáng kể ở nhóm can thiệp (99,8% so với 62,5%) và kết quả là giảm 72,6% trong việc kê đơn quá mức. Anthony K. Mbonye, Ttiến sĩ, ủy viên dịch vụ y tế tại Bộ Y tế Uganda cho biết trong một thông cáo báo chí: "Phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng điều đó là khả thi để hợp tác với khu vực y tế tư nhân và giới thiệu test chẩn đoán nhanh bệnh sốt rét ở các cửa hàng thuốc, bước tiếp theo là điều chỉnh chiến lược và hiểu được ý nghĩa của chi phí trong việc nhân rộng nó lên ở Uganda. Mục tiêu dài hạn của chúng tôi là cung cấp bằng chứng để giúp [WHO] xây dựng hướng dẫn nhằm cải thiện công tác điều trị bệnh sốt rét ở khu vực tư nhân".
|