Chiến lược kiểm soát và loại trừ sốt rét do Plasmodium vivax toàn cầu (Phần 1)
Sự thay đổi và chuyển dịch cơ cấu ký sinh trùng giữa hai chủng loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax làm các nhà quản lý phải điều chỉnh nhiều mục cho phù hợp, trong đó đáng chú ý là vấn đề điều trị tiệt căn P. vivax bằng primaquine và liều lượng chloroquine diệt ký sinh trùng cũng như, quản lý và theo dõi ca bệnh. Trước đây, phần lớn số ca mắc sốt rét do P. vivax tại Việt Nam chủ yếu gặp ở khu vực các tỉnh phía bắc, song nay hầu hết các tỉnh trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên, cơ cấu 50-50% đang tiến dần đối với P. falciparum - P. vivax, điều này tương tự như trên sẽ gây khó khăn trong phòng chống và quản lý ca bệnh cũng như thay đổi chiến lược trong tiến tới lộ trình loại trừ sốt rét do P. vivax trên phạm vi toàn cầu cũng như tại Việt Nam trong thời gian đến do đặc điểm khác biệt với P. falciparum trong chu kỳ sinh học, nên khâu quản lý liệu một bệnh nhân có tuân thủ việc uống thuốc điều trị tiệt căn trong vòng 14 ngày của liệu trình primaquine đầy đủ không? Hơn nữa, P. vivax không phải là cái bóng của P. falciparum mà phạm vi phân bố của chúng rất rộng trên nhiều khu vực trên toàn cầu. Các nguyên tắc cơ bản để kiểm soát sốt rét do P. vivax cũng tương tự như kiểm soát sốt rét P. falciparum, bao gồm: -Giảm lan truyền sốt rét bằng cách giảm muỗi truyền KSTSR sang người và từ người sang muỗi thông qua các biện pháp kiểm soát véc tơ; -Ngăn chặn nhiễm bệnh ở người thông qua ngăn ngừa bằng thuốc sốt rét; -Phát hiện, chẩn đoán và điều trị nhiễm bệnh nhanh chóng và cuối cùng là loại trừ nhiễm bệnh trong cộng đồng thông qua việc cung cấp các dịch vụ điều trị và xét nghiệm chẩn đoán dễ dàng. Nhiều biện pháp can thiệp đã được sử dụng để kiểm soát sốt rét do P. vivax nhưng không hiệu quả như kiểm soát sốt rét do P. falciparum. Do vậy, ở những khu vực có mặt cả hai loài KSTSR này, thì tỷ lệ mắc sốt rét P. falciparum giảm nhanh hơn so với sốt rét do P. vivax. Chính điều này có thể là nguyên nhân chính gây sốt rét dai dẳng và đặt ra thách thức chính trong việc loại trừ sốt rét. Do đó, để kiểm soát và loại trừ sốt rét thành công thì cần có các biện pháp can thiệp bổ sung, đặc biệt là đối với giai đoạn ký sinh trùng thể ẩn trong tế bào gan. Những nguyên tắc cơ bản sau đây có thể lựa chọn để phòng chống và loại trừ sốt rét do P. vivax. Những thách thức cụ thể phải đối mặt, những cơ hội tiềm năng và các đề xuất cụ thể từ Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) đưa ra như sau:
Kiểm soát véc tơ Về nguyên tắc, kiểm soát véc tơ rất quan trọng trong việc làm giảm lan truyền sốt rét do P. vivax, bởi vì thể giao bào của P. vivax thường xuất hiện sớm trước khi bệnh nhân hình thành và phát triển các triệu chứng lâm sàng và tiếp cận điều trị. Do vậy, lan truyền có thể tiếp tục xảy ra bất chấp những nỗ lực tốt nhất lúc chẩn đoán và điều trị ca bệnh nhanh chóng. Điều đặc biệt quan trọng để ngăn chặn nhiễm bệnh ở phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang cho con bú và trẻ sơ sinh, vì những đối tượng này không thể điều trị với thuốc primaquine (do chống chỉ định). Do vậy, nhiều khả năng gây tái phát và trải qua nhiều lần sốt sau khi nhiễm lần đầu tiên.
Một số thách thức -Giao bào P. vivax xuất hiện sớm trong máu người nhiễm bệnh, nên lan truyền có thể xảy ra trước khi nhiễm bệnh được chẩn đoán hoặc điều trị bệnh nhân; -P. vivax có thể trải qua giai đoạn sinh sản bào từ ở nhiều loài muỗi Anopheles sp. ở các vùng khí hậu ôn đới và cận nhiệt đới (16°C đối với P. vivax so với 18°C ở P. falciparum), nghĩa là phạm vi địa lý phân bố rộng, nên kiểm soát véc tơ lan truyền sốt rét do P. vivax rộng hơn so với P. falciparum. -Giai đoạn sinh sản bào tử P. vivax trong véc tơ sốt rét ngắn hơn ( khoảng 10 ngày ở 25°C) so với P. falciparum (12 ngày); do đó, các biện pháp kiểm soát véc tơ nhằm giảm tuổi thọ quần thể các véc tơ có thể chứng minh là ít hiệu quả đối với P. vivax; -Ở nhiều khu vực lan truyền sốt rét thấp và không ổn định bên ngoài khu vực châu Phi nơi KSTSR P. vivax phổ biến và thường chiếm ưu thế, nhiều véc tơ có thể đốt người vào đầu hôm, đốt máu ngoài nhà và nghỉ ngoài nhà. Vì vậy, các biện pháp kiểm soát véc tơ như tẩm màn với hóa chất diệt côn trùng (ITNs) và phun tồn lưu tường vách (IRS) là rất hiệu quả chống lại các véc tơ đốt người muộn hơn vào ban đêm, nghỉ và đốt máu trong nhà - có thể chứng minh là ít hiệu quả trong việc làm giảm lan truyền P. vivax so với ở nhiều vùng châu Phi nơi mà P. falciparum có mặt phổ biến; -Giảm lan truyền được thực hiện khó khăn hơn đối với P. vivax, bởi vì sau khi muỗi đốt gây nhiễm mầm bệnh, thì một số KSTSR thể ẩn lại trong gan - đây là ổ chứa nhiễm tiềm ẩn/ thể ngủ (hypnozoite form) có thể gây tái phát nhiều lần kể từ lần nhiễm đầu tiên, điều này làm gia tăng khả năng nhiễm bệnh cũng như là nguồn truyền nhiễm tiểm ẩn trong cộng đồng gây ra dịch bệnh; -Tái phát do sốt rét P. vivax là một yếu tố gây nhiễu trong việc đánh giá hiệu quả các biện pháp kiểm soát véc tơ cùng như trong kết quả điều trị đối với việc giảm lan truyền bệnh. Bởi vì đây là những ca bệnh xảy ra ngay cả khi những cá nhân sử dụng các biện pháp bảo vệ cá nhân thích hợp hoặc khi kiểm soát véc tơ được triển khai rộng rãi.
Các cơ hội Mặc dù lan truyền sốt rét có thể xảy ra trước khi bắt đầu điều trị, song hầu hết các loại thuốc diệt thể vô tính có hoạt tính chống lại phần nào đối với thể giao bào P. vivax, trái ngược với P. falciparum. Ngoài ra, giao bào P. vivax có thời gian sống ngắn hơn. Do vậy, các chương trình kiểm soát véc tơ có thể được hỗ trợ bằng việc điều trị và phát hiện ca bệnh hiệu quả. Hơn nữa, việc áp dụng liệu pháp primaquine phosphate (PRQ) chống tái phát để diệt bất cứ giao bào nào mà nó có thể tồn tại sau khi dừng điều trị diệt thể vô tính trong máu bệnh nhân.
Một vài ý tưởng mới đã xuất hiện để giải quyết các thách thức lan truyền sốt rét ngoài nhà. Sử dụng màn võng tẩm hóa chất diệt côn trùng hoặc võng hóa chất diệt côn trùng tồn lưu lâu đã cho thấy có hiệu quả bảo vệ chống lại sốt rét do P. vivax và P. falciparum ở Nam Mỹ và khu vực tiểu vùng sông Mê kông. Ở nhiều vùng châu Á, sử dụng kem xua ở một số vùng, xử lý các vật liệu và tẩm quần áo có hiệu quả, đặc biệt khi các biện pháp này được sử dụng kết hợp. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã phát hiện các biện pháp bảo vệ này không chắc chắn cho việc bảo vệ khỏi sốt rét hiệu quả hay không. Ở Ethiopia, sử dụng kết hợp giữa tẩm màn ngủ với hóa chất diệt côn trùng (ITNs) và kem xua đã cho thấy hiệu quả bảo vệ chống lại cả sốt rét do P. falciparum và P. vivax. Thay đổi môi trường, hóa chất diệt bọ gậy và kiểm soát sinh học (sử dụng cá ăn động vật, mầm bệnh côn trùng và ký sinh trùng) có thể giúp làm giảm lan truyền sốt rét. Tuy nhiên, việc giảm và quản lý ổ bọ gậy nguồn chỉ có thể áp dụng ở những vùng mà nơi sinh sản của muỗi ít, cố định và có thể tìm thấy ổ đẻ một cách dễ dàng.
Ở một số nơi, áp dụng hóa chất diệt côn trùng (phun hoặc tẩm hóa chất) trên gia súc có thể có hiệu quả trong việc làm giảm mật độ véc tơ. Những vật liệu mới được áp dụng như lớp lót tường xử lý hóa chất diệt côn trùng (insecticide-treated wall liners) và tấm lót nhựa đã được xử lý hóa chất diệt côn trùng (insecticide incorporated plastic sheeting) được thử nghiệm, nhưng hiệu quả bảo vệ của chúng chống lại sốt rét do P. vivax chưa được chứng minh rõ ràng. Một số đề nghị -Đảm bảo độ bao phủ cao và bền vững với các chiến lược kiểm soát véc tơ thích hợp theo từng vùng dịch tễ và tập tính của các véc tơ tại địa phương (ví dụ: muỗi đốt trong nhà hay ngoài nhà). TCYTTG khuyến nghị về việc sử dụng các màn tẩm hóa chất hoặc phun tồn lưu trong nhà (ITNs, IRS) và kiểm soát bọ gậy được tóm tắt theo những tài liệu cụ thể sau: +Màn chống muỗi tẩm hóa chất diệt côn trùng: báo cáo chính thức của TCYTTG (A WHO position statement); +Phun tồn lưu trong nhà: tài liệu hướng dẫn sử dụng phun tồn lưu trong nhà (IRS) kiểm soát và loại trừ, lan truyền sốt rét; +Hướng dẫn quốc gia kết hợp phun tồn lưu trong nhà và màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu; +Quản lý ổ bọ gậy nguồn như biện pháp bổ sung để kiểm soát véc tơ sốt rét: tài liệu hướng dẫn hoạt động. -Trong trường hợp không có khuyến cáo chính thức của TCYTTG về việc sử dụng các công cụ bổ sung, sinh thái học véc tơ địa phương và động lực lan truyền bệnh nên được dựa vào bản báo cáo đánh giá các công cụ có thể hiệu quả. Tác động lớn nhất với kiểm soát véc tơ là có khả năng đến từ việc kết hợp các chiến lược khác nhau nhắm mục tiêu đến các giai đoạn vòng đời khau, dựa vào sự phong phú véc tơ địa phương, sinh thái và tập tính của véc tơ sốt rét; -Đặc biệt chú ý, phải đảm bảo chắc chắn rằng các biện pháp kiểm soát véc tơ được sử dụng để bảo vệ phụ nữ mang thai (PNMT), phụ nữ đang cho con bú và trẻ em dưới 1 tuổi. Các nhóm dân di cư (gồm nhóm dân du canh du cư, công nhân làm việc theo mùa vụ, những người di cư, những người tị nạn và các lực lượng quân sự) là nhóm dân có nguy cơ cao nhất cần đặc biệt chú ý, đặc biệt nếu họ không có miễn dịch đi vào vùng lưu hành sốt rét hoặc ngược lại nếu họ mang mầm bệnh sốt rét vào những khu vực dễ tiếp nhận sốt rét; -Giám sát véc tơ nên cố gắng thu thập thông tin về sự hiện diện, sự phong phú và tập tính các loài véc tơ biết đến, đồng thời phát triển và giám sát các chiến lược kiểm soát véc tơ và bảo vệ cá nhân thích hợp. Xác định chính xác loài véc tơ theo các phương pháp sinh học phân tử hoặc hình thái là rất quan trọng đối với nỗ lực này. Các vị trí sinh sản và các khu vực nguy cơ nên được vẽ lên bản đồ và các mức độ nhạy cảm của véc tơ với hóa chất diệt côn trùng nên được giám sát. Nó có thể hữu ích để giảm sát các thông số môi trường, đặc biệt là các đặc tính về khí tượng thủy văn ảnh hưởng đến lan truyền sốt rét, chẳng hạn như lượng mưa và nhiệt độ. -Duy trì tình trạng không có sốt rét, các hoạt động giám sát véc tơ nên tiếp tục sau khi loại trừ sốt rét đã diễn ra, giám sát các khu vực dễ xảy ra sốt rét (xác định vị trí sinh sản của véc tơ và đánh giá nguy cơ bùng phát); -Các chiến lược giáo dục sức khỏe và nhận thức cộng đồng về bệnh sốt rét, bao gồm cả việc lập kế hoạch và thực hiện, sẽ ảnh hưởng đến sự hiểu biết và chấp nhận áp dụng các công cụ bảo vệ cá nhân và kiểm soát véc tơ tại địa phương. Hiểu biết các thói quen của người dân địa phương sẽ cho phép thích ứng các chiến lược và áp dụng mà cả xã hội chấp nhận và hiệu quả (ví dụ như các công cụ đặt ra cho việc khắc phục các nguy cơ liên quan với số lượng người ngủ ngoài nhà lớn hơn trong thời gian các tháng nóng, do đó những người không được bảo vệ chống lại véc tơ tấn công.
Phòng chống bằng hóa trị liệu (chemoprevention) Sử dụng hóa trị liệu phòng chống sốt rét do P. vivax có thể được thực hiện theo các hình thức sau: -Chloroquine dự phòng được đưa ra để ngăn chặn sốt rét P. vivax ở các PNMT tại những khu vực lưu hành, nơi lan truyền sốt rét cao; -Điều trị tiệt căn P. vivax với liệu trình điều trị primaquin cho toàn bộ dân số có nguy cơ, để ngăn chặn tái phát từ nguồn thể ngủ trong gan của các bệnh nhân. Điều trị dự phòng hàng loạt với primaquin đã được áp dụng ở nhiều khu vực lan truyền sốt rét theo mùa, để phòng ngừa lan truyền xảy ra do tái phát. Như điều trị vào mùa xuân thường được áp dụng cho ổ dịch lan truyền P. vivax vẫn còn hoạt động ở những nơi loại trừ (elimination settings). Bởi vì không có xét nghiệm nào giúp chẩn đoán thể ngủ ở trong gan (hypnozoites), nên không thể kiểm tra những bệnh nhân với thể ngủ trước khi điều trị. Điều trị hoàn toàn với primaquine cho những ca bệnh sốt rét P. vivax được xác định; -Điều trị dự phòng tập trung vào việc ngăn chặn lan truyền từ khách du lịch, những người lao động nhập cư hoặc nhóm nghề nghiệp có tiếp xúc với bệnh sốt rét và trở về những khu vực đang loại trừ hoặc đã được loại trừ bệnh sốt rét thành công. Những người đi du lịch uống primaquin trong suốt thời gian lưu trú lại ở vùng lưu hành sốt rét và 1 tuần sau khi trở về (điều trị dự phòng nguyên nhân); -Liệu pháp điều trị chống tái phát xa có cở sở hợp lý (presumptive anti-relapse therapy-PART). Những du khách đã được điều trị dự phòng trong thời gian đi du lịch (như trên) nhận được liệu trình điều trị đầy đủ với thuốc primaquine, để ngăn ngừa tái phát từ nguồn thể ngủ trong gan (hypnozoite). PART có thể tập trung vào việc ngăn chặn sự lây truyền từ khách du lịch, những lao động nhập cư hoặc nhóm nghề nghiệp đã được tiếp xúc với nguy cơ tương đối cao của bệnh sốt rét và quay trở lại những khu vực đang thực hiện loại trừ hoặc đã loại trừ sốt rét.
Thách thức Thuốc primaquine chỉ dành để diệt các thể hay các giai đoạn ở gan, nguyên nhân do thuốc này có thể gây tan máu nhẹ đến nặng ở những bệnh nhân thiếu men G6PD. Primaquine không cho phép sử dụng như một tác nhân hóa dự phòng (chemoprophylatic agent) hoặc cho điều trị phỏng đoán sốt rét (presumptive treatment) ở bất kỳ quốc gia nào, mặc dù một số chính phủ không đồng ý điều này. Khuyến cáo -Điều trị dự phòng có thể là một chiến lược quan trọng ở các nhóm dân số đích được lựa chọn, trong đó xét nghiệm thiếu men G6PD có thể được thực hiện ở những nhóm dân như bộ đội và các nhóm dân có tiếp xúc cao với sốt rét và thể hiện nguy cơ cao sốt rét xâm nhập vào các nhóm dân nếu không thì tiếp xúc với nguy cơ rất thấp hoặc không có nguy cơ lây nhiễm; -Việc sử dụng chloroquine ở trên các PNMT chỉ được khuyến cáo để ngăn chặn tái phát ở phụ nữ nhiễm sốt rét do P. vivax trong thời gian mang thai (vì primaquine bị chống chỉ định ở PNMT). Dự phòng chloroquine thường xuyên như là một biện pháp để ngăn chặn sốt rét do P. vivax ở trên các PNMT tại những khu vực lan truyền sốt rét cao không được khuyến cáo; -Hiện nay, TCYTTG không khuyến cáo sử dụng MPPT và dự phòng nguyên nhân như là các chiến lược chung.
Chẩn đoán nhiễm ký sinh trùng sốt rét P. vivax Nguyên tắc chung Các triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng không thể phân biệt giữa sốt rét do P. vivax so với P. falciparum hoặc nhiều bệnh gây sốt khác. Do vậy, xác định ký sinh trùng sốt rét bằng xét nghiệm mẫu máu nhuộm giêm sa soi dưới kính hiển vi hoặc sử dụng xét nghiệm miễn dịch sử dụng kháng thể đơn dòng đối với phát hiện kháng nguyên ký sinh trùng (như Rapid Diagnosis Tests_RDTs) là cần thiết. Giới hạn để phát hiện đối với các chuyên gia soi lam dưới kính hiển vi là khoảng 4-20 ký sinh trùng/μL máu, nhưng ở những điều kiện lâm sàng, kính hiển vi được xem là không chắc chắn khi mật độ ký sinh trùng sốt rét dưới ngưỡng 50 ký sinh trùng/μL. Giới hạn phát hiện đối với hầu hết test sốt rét chẩn đoán nhanh là (RDTs) 200 ký sinh trùng/μL. Ở mật độ ký sinh trùng thấp (< 200 ký sinh trùng/μL), các RDTs ít nhạy với P. vivax so với P. falciparum, nhưng hiệu suất sản phẩm phát hiện P. vivax đã được cải thiện đang kể trong những năm gần đây. Thách thức -P. vivax thường xuyên có mặt ở mật độ ký sinh trùng thấp hơn (thấp hơn 10 lần) so với P. falciparum, nhiễm P. vivax khó phát hiện hơn bằng phương pháp RDTs và kinh hiển vi. Do vậy, mật độ ký sinh trùng thấp, nhiễm một loài duy nhất với P. vivax có thể vẫn chưa chẩn đoán và ghi nhận kiểm tra âm tính, những nơi nhiễm phối hợp có thể ghi nhận là nhiễm P. falciparum; -Giai đoạn ở gan, thể ngủ không thể phát hiện bằng các phương pháp chẩn đoán hiện có; -Ở một số khu vực P. vivax xảy ra, bệnh nhân rất khó để tiếp cận các dịch vụ dự phòng để nhận xét nghiệm chẩn đoán. Đặc biệt, những nhà cung cấp y tế tư nhân không thể cung cấp xét nghiệm chẩn đoán. Ở những khu vưc lan truyền sốt rét rất thấp, các bác sĩ lâm sàng có thể không nghĩ đến sốt rét có thể là nguyên nhân gây sốt và do vậy không yêu cầu chẩn đoán sốt rét; -Đảm bảo chất lượng kính hiển vi có thể thiếu hoặc kiểm soát không thường xuyên.
Cơ hội Test chẩn đoán nhanh (RDT) cho phép tăng khả năng tiếp cận xét nghiệm chẩn đoán với đào tạo tối thiểu và ở chi phí tương đối thấp (thường là 90% cho cả P. vivax và P. falciparum tại ngưỡng 200 ký sinh trùng/μL. Các xét nghiệm này phù hợp cho việc chẩn đoán sốt rét P. vivax cấp tính. Khuyến cáo -Xác định ký sinh trùng sốt rét bằng kính hiển vi hoặc bằng test nhanh RDTs được khuyến cáoở tất cả các bệnh nhân nghi nghờ sốt rét trước khi bắt đầu liệu trình điều trị sốt rét. Những nỗ lực nên thực hiện đảm bảo tiếp cận xét nghiệm chẩn đoán ở khu vực YTTN cũng như ở YTNN; -Các kết quả chẩn đoán ký sinh trùng nên có được trong thời gian ngắn (< 2 giờ), trong trường hợp không có hoặc trì hoãn chẩn đoán ký sinh trùng, những bệnh nhân nguy ngờ sốt rét nặng hoặc nhóm nguy cơ cao nên được điều trị ngay lặp tức trên cơ sở lâm sàng phỏng đoán; -Kính hiển vi: các tiêu chuẩn TCYTTG về đào tạo kính hiển vi sốt rét, chứng nhận và đảm bảo chất lượng nên được đặt ở nơi thích hợp. Độ nhạy thấp là mối đe dọa chẩn đoán chính ở điều kiện lâm sàng. Do vậy, đào tạo kỹ thuật viên kính hiển vi lâm sàng nên nhằm mục đích vào việc phát hiện ở mức tối đa. Để loại trừ các trường hợp ca nhiễm mật độ ký sinh trùng thấp, kiểm tra lam máu lặp lại ở những bệnh nhân nghi ngờ sốt rét nên được thực hiện trước khi ghi nhận bệnh nhân âm tính với ký sinh trùng P. vivax; -Test chẩn đoán nhanh: Những nơi chất lượng các dịch vụ kiểm tra kính hiển vi không đảm bảo, thì nên sử dụng test chẩn doán nhanh. Ở những khu vực có mặt cả P. falciparum và P. vivax, các loại test có thể phát hiện hai loài KSTSR (bivalent RDTs) nên được sử dụng để phân biệt giữa P. falciparum và P. vivax. Test chẩn đoán nhanh nên được sử dụng vì chúng đã được đánh giá thông qua các chương trình kiểm tra sản phẩm của WHO/FIND và đáp ứng được các tiêu chuẩn TCYTTG đưa ra; -Khả năng chẩn đoán bao gồm đảm bảo chất lượng, nên được duy trì thậm chí khi sốt rét được loại trừ hoặc tiến tới loại trừ sốt rét.
Chẩn đoán thiếu men G6PD trên bệnh nhân Nguyên tắc chung Chỉ có một loại thuốc có để điều trị nhiễm P. vivax giai đoạn trong gan là thuốc primaquine, thuốc này gây ra tan huyết nhẹ đến tan huyết nặng (có khả năng đe dọa tính mạng) ở những bệnh nhân thiếu men G6PD. Nguy cơ gây tan tan máu của primaquine phụ thuộc vào liều lượng, nó cũng phụ thuộc vào mức độ thiếu G6PD. Primaquine được đào thải nhanh chóng và do đó tán huyết tự giới hạn nếu không được cung cấp thuốc thêm thuốc đó nữa. Hơn 180 biến thể di truyền thiếu men G6PD đã được mô tả, đóng góp vào sự thay đổi các mức độ thiếu men. Ở các quốc gia có sốt rét lưu hành, thiếu men G6PD xảy ra với tần suất alen trung bình là 8%. Mục đích xét nghiệm men G6PD là để xác định xem liệu bệnh nhân có an toàn để nhận điều trị với primaquine hay không. Các mức độ hoạt độ của men G6PD trong tế bào máu khoảng 30% của các giá trị bình thường hoặc trên được cho là có nguy cơ với các liều lượng điều trị thông thường của primaquin. Giá trị này dựa vào phát hiện các thông số NADPH (nicotinamide adenine dinucleotide phosphate_NADPH) bằng cách phân tích chấm huỳnh quang (fluorescent spot test, thường test Sigma), điều này đã được sử dụng rộng rãi ở những nơi thiết lập hoạt động, cả trong việc hướng dẫn các quyết định điều trị và hướng dẫn các bệnh nhân nên được đưa vào các thử nghiệm lâm sàng. Thách thức Phương pháp xét nghiệm thiếu men G6PD có chủ yếu ở các bệnh viện. Hiện nay, có 3 phương pháp xét nghiệm chính để đo hoạt độ men G6PD được sử dụng: -Hai trong ba phương pháp này gồm xét nghiệm chấm huỳnh quang (fluorescent spot test) và xét nghiệm đo quang phổ kế (spectrophotometric assay), có thể phát hiện thiếu men G6PD ở nam giới nữa tiếp hợp (hemizygous males) và phụ nữ đồng hợp tử (homozygous women), nhưng có thể là khó giải quyết trong việc phát hiện thiếu men G6PD ở phụ nữ dị hợp tử (heterozygous women), bởi vì một bộ phận hồng cầu có thể thấy hoạt động G6PD bình thường; -Xét nghiệm hóa tế bào (cytochemical assay) phát hiện thiếu men G6PD ở phụ nữ dị hợp tử (heterozygous women) là phương pháp đáng tin cậy nhất, bởi vì nó kiểm tra hoạt tính của các tế bào máu đỏ ở từng cá nhân. Tuy nhiên, kỹ thuật này đắt tiền và rất khó để thực hiện. Hiện nay, các kỹ thuật xét nghiệm này không có sẵn để sử dụng thường xuyên tại hầu hết các điều kiện thực địa bởi vì chúng yêu cầu một chuỗi dây chuyền lạnh, các phòng thí nghiệm và kỹ năng của người làm việc và thiết bị quá đắt tiền. Hiện nay, chủ yếu chúng được sử dụng cho các nghiên cứu và các đợt điều tra, và trong một vài điều kiện lâm sàng nơi chúng có thể dễ dàng triển khai. Kiểu gen có thể giúp phát hiện nữ dị hợp tử (heterozygous females) nhưng đắt tiền và yêu cầu trang thiết bị phức tạp. Ngoài ra, các biến thể di truyền cần phải được biết trước. Hiện nay, các nhà sinh hóa miễn dịch đã phát hiện hơn 180 alen liên quan đến thiếu men G6PD được biết đến nhưng thực tế nhiều hơn nữa có thể tồn tại (chưa phát hiện). Kiểm tra có thể đề nghị rằng bệnh nhân có hoạt tính G6PD bình thường nhưng trên thực tế bệnh nhân thiếu thiếu men G6PD và hiện có một biến thể gen chưa được công nhận.
Các thách thức Xét nghiệm sàng lọc nhanh dựa vào phản ứng khử thuốc nhuộm mà gần đây có thể được sử dụng ở các cơ sở y tế bên ngoài đã trở thành thương mại hóa. Điều này, cho thấy nhiều hứa hẹn nhưng cần đánh giá nhiều hơn nữa trước khi chúng có thể được đề nghị cho chẩn đoán thường xuyên bệnh nhân trước khi điều trị primaquine. Xét nghiệm men G6PD đã được báo cáo như một phần của chương trình kiểm tra sàng lọc trẻ sở sinh quốc gia ở Ấn Độ, Philippines và Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ bao phủ xét nghiệm như vậy là chưa đủ. Khuyến cáo -Nếu có thể, tất cả bệnh nhân nên được kiểm tra thiếu men G6PD trước khi điều trị với thuốc primaquine. Xét nghiệm thiếu men G6PD ở những ca sốt rét do P. vivax nên được xem như một phần không thể thiếu trong việc đảm bảo tiếp cận dễ dàng để chẩn đoán và điều trị bệnh; -Xét nghiệm men G6PD nên được đưa vào các hướng dẫn điều trị và dịch vụ có sẵn như là các công cụ được phát triển; -Có thể chuyển bệnh nhân từ cơ sở y tế thấp đến các cơ sở y tế cao hơn; -Trong trường hợp không có xét nghiệm men G6PD, thì điều này rất khó khăn để mở rộng phương pháp chính xác để quản lý bệnh nhân, bởi vì đánh giá mỗi cá nhân phụ thuộc vào nguy cơ bất lợi ảnh hưởng đến sức khỏe (liên quan đến khả năng liều lượng primaquine yêu cầu, tỷ lệ và mức độ của thiếu men G6PD ở khu vực, mức độ thiếu máu và sự sẵn có của truyền máu). -Trong một số trường hợp, việc đánh giá sẽ từ chối ủng hộ điều trị primaquine, và trong trường hợp khác sẽ bắt đầu ủng hộ điều trị triệt căn sau khi cho bệnh nhân nhận biết các nguy cơ có thể xảy ra và thông báo cho bệnh nhân biết rằng họ nên dừng thuốc nếu họ bị bệnh nặng thêm hoặc nước tiểu có màu đỏ hoặc nâu đen. Điều trị sốt rét P. vivax chưa biến chứng Nguyên tắc chung Điều trị triệt căn sốt rét P. vivax thì cần điều trị cả giai đoạn trong tế bào gan và giai đoạn ở máu, hoàn thành điều trị lâm sàng và ngăn chặn tái phát, lan truyền xảy ra và tiến triển bệnh nặng. Hầu hết các loại thuốc có hoạt tính chống lại sốt rét P. falciparum cũng có hiệu quả chống lại các giai đoạn vô tính của loài KSTSR P. vivax, ngoại trừ nhóm thuốc chống antifolates (pyrimethamine, proguanil, sulfonamide, sulfadoxine và dapsone), có hoạt tính chậm và dễ phát triển nhanh kháng thuốc.
Ở hầu hết các khu vực lưu hành, chloroquine vẫn còn hiệu quả chống lại P. vivax. Tuy nhiên, ít nhất có 1 trường hợp kháng chloroquine (với các nồng độ chloroquine máu toàn phần cộng với desethylchloroquin (CQ + DCQ) ≥ 100 ng/ml vào thời điểm ngày thất bại hay xuất hiện lại ký sinh trùng) đã được báo cáo ở 9 quốc gia (Brazil, Ethiopia, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Papua New Guinea, Peru, Solomon Islands và Thái Lan). Mefloquine, Atovaquone cộng với proguanil, halofantrine, thuốc phối hợp ACTs như dihydroartemisinin-piperaquine và artesunate-pyronaridine - tất cả cho thấy có hiệu quả tốt chống lại sốt rét do P. vivax kháng chloroquine ở các thử nghiệm lâm sàng. Liệu pháp thuốc phối hợp có thành phần Artemisinine hoặc dẫn suất (Artemisinin-based combination therapies_ACTs) có hiệu quả cao trong điều trị sốt rét do P. vivax, ngoại trừ artesunate cộng với sulfadoxine-pyrimethamine (SP). Tác dụng đầu tiên đối với các thuốc ACTs là tất cả tác động nhanh chóng, phản ánh độ nhạy P. vivax cao với dẫn xuất artemisinin. Các loại thuốc phối hợp có thể cung cấp bảo vệ tạm thời, nhưng tái phát thường xảy ra trừ khi thuốc primaquine được cung cấp điều trị. Có sự khác nhau trong mô hình tái phát sau này, phản ảnh động lực loại trừ của các loại thuốc phối hợp. Ví dụ, tái xuất hiện được coi như là tái phát, xảy ra sớm hơn theo sau artemether-lumefantrine so với dihydroartemisininpiperaquine hoặc artesunate-mefloquin, bởi vì lumefantrine được đào thải nhanh hơn so với mefloquin hoặc piperaquin.
Mô hình tái phát theo thời gian giống nhau này với các loại thuốc cụ thể được nhìn thấy ở các trường hợp nhiễm P. vivax có theo dõi cùng với 1/3 các ca nhiễm sốt rét do P. falciparum cấp tính ở Đông Nam Á. Hầu hết các loại thuốc diệt thể vô tính đều có tác dụng diệt giao bào P. vivax ít nhiều, mặc dù không chống lại giao bào P. falciparum và nếu dùng kịp thời chúng có thể giúp làm giảm lan truyền P. vivax. Tuy nhiên, hiện chỉ có primaquine là có sẵn để tấn công các giai đoạn ở gan. Để điều trị triệt căn, TCYTTG khuyến cáo một đợt điều trị kéo dài 14 ngày với primaquine. Primaquine đã được đánh giá là loại thuốc chính cùng với chloroquine, là hai loại thuốc hiệu quả để điều trị triệt căn. Giai đoạn vô tính P. vivax nhạy cảm với primaquine, nên chloroquin cộng với primaquine có thể được xem như điều trị kết hợp cho nhiễm giai đoạn máu, ngoài ra cung cấp thuốc primaquine điều trị triệt căn. Primaquine cũng đã được chứng minh có hiệu quả và an toàn khi dùng chúng với dihydroartemisinin-piperaquine (DHA-PPQ) trong vòng 28 ngày theo dõi sau khi bắt đầu dùng thuốc diệt thể vô tính. Thách thức -Primaquine có thể gây ra cơn tan huyết từ mức độ nhẹ đến nặng ở bệnh nhân thiếu men G6PD. Hiện nay các xét nghiệm thiếu men G6PD không có sẵn để sử dụng ở hầu hết nơi cơ sở điều trị vì chúng yêu cầu các phòng thí nghiệm và nhân viên phải có kinh nghiệm xét nghiệm và sinh phẩm xét nghiệm quá đắt tiền; -Ở những nơi xét nghiệm thiếu men G6PD không có và tỷ lệ thiếu men cao, nguy cơ tan huyết có thể được ngăn chặn, đặc biệt ở các quốc gia Nam Á và Đông Nam Á - nơi mà các biến thể thiếu men G6PDH nặng thường xảy ra. Do vậy, trong khi primaquin có thể bao gồm trong các hướng dẫn điều trị quốc gia, nó thường không được sử dụng hoặc không có sẵn bởi vì thế tiến thoái lưỡng nantrong số các bác sĩ kê toa do những lo ngại về an toàn; -Các hướng dẫn hiện nay đề nghị về primaquine không nên cung cấp cho phụ nữ mang thai hoặc phụ nữ đang cho con bú. Cơ hội Các loại thuốc đang được nghiên cứu và phát triển, bao gồm tafenoquine, có thể cung cấp liệu trình có thời gian điều trị ngắn hơn hoặc điều trị liều đơn để điều trị triệt căn. Tuy nhiên, tafenoquine với tất cả 8-aminoquinolein, có các vấn đề an toàn G6PD tương tự như những gì nhìn thấy với primaquin. Khuyến cáo Điều trị nhiễm giai đoạn hồng cầu Các khuyến cáo điều trị sốt rét P. vivax cấp tính không biến chứng có trong ấn bản mới nhất về hướng dẫn điều trị sốt rét của TCYTTG, phiên bản 3 (WHO, 2015). -Ở những khu vực, các ca nhiễm bệnh còn nhạy với chloroquin, TCYTTG khuyến cáo người lớn và trẻ em cần được điều trị với thuốc phối hợp ACTs (ngoại trừ phụ nữ mang thai trong ba tháng đầu) hoặc chloroquin; -Ngoại trừ artesunate + S/P, nơi kháng làm giảm hiệu quả của thuốc SP, giống như điều trị các trường hợp nhiễm giai đoạn hồng cầu có thể đề nghị cho cả sốt rét P. falciparum và P. vivax. Một chính sách thống nhất để điều trị cho cả sốt rét P. falciparum và P. vivax tăng hiệu quả hoạt động và giảm sử dụng chloroquin để điều trị sốt rét do P. falciparum nơi mà loài này đã bị chẩn đoán nhầm là loài P. vivax; thuốc ACTs cũng được lựa chọn để điều trị nhiễm phối hợp các loài; -Phụ nữ mang thai trong ba tháng đầu, primaquin không được sử dụng, thuốc ACTs nên sử dụng đúng chỉ định của Hướng dẫn Bộ Y tế và TCYTTG mới nhất; -Ở những khu vực P. vivax được biết là đã kháng với chloroquin, thì thuốc ACTs có thành phần mefloquin, lumefantrin hoặc piperaquin được khuyến cao lựa chọn điều trị. Artesunate-amodiaquine cũng có thể hiệu quả ở một số nơi.
Ngăn chặn tái phát xa -Để điều trị triệt căn (điều trị và phòng ngừa tái phát xa), sốt rét do P. vivax, khóa điều trị với primaquin trong thời gian 14 ngày được khuyến cáo, sau khi loại trừ thiếu men G6PD. Sử dụng primaquine được khuyến cáo ở tất cả những khu vực lan truyền sốt rét P. vivax. Đối với tái phát do P. vivax thường xuyên, tổng liều 3,5 mg/kg (0,25 mg/kg/ngày) là bắt buộc ở những vùng lan truyền vừa phải và 7 mg/kg (0,5 mg/kg/ngày) ở những khu vực lan truyền cao. Primaquine gây khó chịu ở bụng khi uống lúc đói, do vậy thuốc luôn luôn nên uống chung với thức ăn; -Primaquine chống chỉ định ở phụ nữ mang thai và cho con bú (trừ khi trẻ em trên 6 tháng tuổi và được biết là không thiếu G6PD) và trẻ sơ sinh; -Những bệnh nhân thiếu men G6PD, thuốc primaquine có thể được xem xét ở liều 0,75 mg/kg cân nặng, một lần/tuần trong 8 tuần. Quyết định đưa ra hoặc từ chối primaquine nên phụ thuộc vào khả năng đưa ra điều trị dưới sự giám sát sức khỏe chặc chẽ (kiểm tra khả năng primaquine gây ra các ảnh hương bất lợi đến công thức máu), với sự sẵn sàng tiếp cận các cơ sở y tế có dịch vụ truyền máu;
-Một vài nữ giới dị hợp (heterozygous females) kiểm tra là bình thường hoặc thiếu trong các xét nghiệm sàng lọc G6PD định tính có hoạt tính G6PD trung gian và có thể tan máu đáng kể. Thiếu hợp chất trung gian (khoảng từ 30-80% của bình thường) và hoạt tính enzym bình thường (lớn hơn 80% của bình thường) có thể chỉ là khác nhau với test định lượng. Trong trường hợp không có xét nghiệm định lượng, tất cả phụ nữ nên được coi như có khả năng có hoạt tính G6PD trung gian và được dùng thuốc primaquin 14 ngày; họ nên cần được tư vấn làm thế nào để nhận ra các dấu hiệu bệnh thiếu máu do tan huyết. Họ cần được khuyên ngừng thuốc primaquine và nói cho họ biết nơi để tìm kiếm sự chăm sóc đặc biệt khi các dấu hiệu này phát triển; -Nếu xét nghiệm G6PD không có sẵn, một quyết định cho phép hoặc tử chối sử dụng primaquin nên dựa vào đánh giá lợi ích của ngăn chặn tái phát chống lại các nguy cơ primaquin gây ra bao gồm cả bệnh thiếu máu do tan huyết. Điều này phụ thuộc vào tỷ lệ dân số thiếu G6PD, mức độ nghiêm trọng của các kiểu gen phổ biến và khả năng của các dịch vụ y tế để xác định và quản lý bệnh thiếu máu tán huyết do primaquine gây ra; -Phụ nữ mang thai nhiễm sốt rét do P. vivax cấp nên được điều trị với chloroquin (tất cả các giai đoạn thai kỳ) hoặc thuốc phối hợp ACTs (ba tháng giữa hoặc ba tháng cuối thai kỳ); -Ở những khu vực P. vivax kháng chloroquin hoặc trong một chính sách điều trị thống nhất được thực hiện, quinin nên được sử dụng trong ba tháng đầu tiên của thai kỳ và ACTs sử dụng ở ba tháng giữa và cuối của thai kỳ. Primaquin chống chỉ định sử dụng cho phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi và bà mẹ đang cho con bú (trừ trẻ em được biết là thiếu men G6PD);
-Như là một sự thay thế, điều trị dự phòng chloroquin có thể được đưa ra để ngăn chặn sự tái phát sau khi nhiễm sốt rét P. vivax cấp tính trong giai đoạn mang thai. Một khi trẻ sơ sinh đã được sinh ra và bà mẹ đã dừng cho con bú thì primaquin sau đó có thể được cung cấp hoàn thành điều trị triệt căn; -Các phương pháp để cải thiện tuân thủ có thể bao gồm liệu pháp quan sát trực tiếp (directly observed therapy_DOTs), nơi mỗi liều được cung cấp bởi nhân viên y tế được đào tạo, hoặc cải thiến các thông điệp sức khỏe và in trên bao bì. Các chương trình có thể miễn cưỡng thúc đẩy mạnh mẽ tuân thủ đầy đủ vì sợ vô tình khuyến khích tiếp tục điều trị ở những bệnh nhân có các triệu chứng của bệnh thiếu máu tan huyết cấp tính. Bệnh nhân cần được thông báo về những nguy cơ có thể xảy ra và thông tin cho họ nên ngừng thuốc nếu họ bị bệnh hoặc nước tiểu của họ có màu đỏ hoặc màu đen; -Khi primaquin được sử dụng rộng rãi hơn và khi nó được kết hợp thường xuyên hơn với các loại thuốc phối hợp khác mà dữ liệu an toàn đang thiếu, có một nhu cầu đang gia tăng để nâng cao cảnh giác dược ở tất cả các khu vực nơi mà primaquin sẽ triển khai. Điều này sẽ cho phép nâng cao kiến thức an toàn thuốc và gia tăng khả năng phát hiện các tác dụng ngoại ý của thuốc hiếm gặp; -Ở mức tối thiểu, các báo cáo cánh giác dược nên bao gồm dữ liệu về bệnh nhân (tuổi, giới tính, tình trạng mang thai và các bệnh kèm), việc điều trị (liều lượng và thời gian điều trị, các loại thuốc dùng đồng thời), các tác dụng phụ (các triệu chứng, mức độ nghiêm trọng và thời gian khởi phát sau điều trị) và người báo cáo; -Những số liệu này có thể được thu thập tại các phòng khám và bệnh viện, và phải được báo cáo cho cơ quan trung ương hoặc chương trình mà có thể biên soạn và báo cáo về dữ liệu. Đặc biệt chú ý phải được thanh toán vào các triệu chứng của thiếu máu tán huyết nơi mà primaquine được sử dụng rộng rãi. Tài liệu tham khảo 1.Gething PW, Elyazar IR, Moyes CL, Smith DL, Battle KE, Guerra CA et al. A long neglected world malaria map: Plasmodium vivaxendemicity in 2010. PLoS Negl Trop Dis. 2012;6(9):e1814. 2.Battle KE, Gething PW, Elyazar IR, Moyes CL, Sinka ME, Howes RE et al. The global public health signicance of Plasmodium vivax. Advances in Parasitology. 2012;80:1-111. 3.Hay SI, Sinka ME, Okara RM, Kabaria CW, Mbithi PM, Tago CC et al. Developing global maps of the dominant Anophelesvectors of human malaria. PLoS Medicine. 2010;7(2):e1000209. 4.Gething PW, Van Boeckel TP, Smith DL, Guerra CA, Patil AP, Snow RW et al. Modelling the global constraints of temperature on transmission of Plasmodium falciparum and P. vivax. Parasites & Vectors. 2011;4(1):92. 5.Guerra CA, Howes RE, Patil AP, Gething PW, Van Boeckel TP, Temperley WH et al. The international limits and population at risk of Plasmodium vivax transmission in 2009. PLoS Neglected Tropical Diseases. 2010;4(8):e774. 6.Gething PW, Patil AP, Smith DL, Guerra CA, Elyazar IR, Johnston GL et al. A new world malaria map: Plasmodium falciparum endemicity in 2010. Malaria Journal. 2011;10(1):378. 7.Battle KE, Cameron E, Guerra CA, Golding N, Duda KA, Howes RE et al. Dening the relationship between Plasmodium vivaxparasite rate and clinical disease. Malaria Journal. 2015;14(1):191 8.Okell LC, Bousema T, Grin JT, Ouedraogo AL, Ghani AC, Drakeley CJ. Factors determining the occurrence of submicroscopic malaria infections and their relevance for control. Nature Communications. 2012;3:1237. 9.WHO. World malaria report 2014. Geneva, World Health Organization (WHO). 2014 (http://www.who.int/malaria/publications/world_malaria_report_2014). 10.Mendis K, Sina BJ, Marchesini P, Carter R. The neglected burden of Plasmodium vivaxmalaria. Am J Trop Med Hyg. 2001;64(1-2 Suppl):97-106. 11.Je‑ery GM. Epidemiological signicance of repeated infections with homologous and heterologous strains and species of Plasmodium. Bulletin of the World Health Organization. 1966;35(6):873–882. 12.Mueller I, Galinski MR, Baird JK, Carlton JM, Kochar DK, Alonso PL et al. Key gaps in the knowledge of Plasmodium vivax, a neglected human malaria parasite. The Lancet Infectious Diseases. 2009;9(9):555–566. 13.Awab GR, Pukrittayakamee S, Imwong M, Dondorp AM, Woodrow CJ, Lee SJ et al. Dihydroartemisinin-piperaquine versus chloroquine to treat vivax malaria in Afghanistan: an open randomized, non-inferiority, trial. Malaria Journal. 2010;9(1):105. 14.Ratcli‑ A, Siswantoro H, Kenangalem E, Maristela R, Wuwung RM, Laihad F et al. Two xed-dose artemisinin combinations for drug-resistant falciparum and vivax malaria in Papua, Indonesia: an open-label randomised comparison. Lancet. 2007;369(9563):757-765. 15.Garnham PCC. Malaria parasites of man: life-cycles and morphology (excluding ultrastructure). In: Wernsdorfer WH & McGregor I, eds. lMalaria parasites of man: life-cycles and morphology (excluding ultrastructure). Edinburgh, Churchill Livingstone. 1988:61-96. 16.Beutler E. The hemolytic e‑ect of primaquine and related compounds: A review. Blood. 1959;14(2): 103-139. 17.White NJ, Imwong M. Relapse. Advances in Parasitology. 2012;80:113-150. 18.Sutanto I, Tjahjono B, Basri H, Taylor WR, Putri FA, Meilia RA et al. Randomized, open-label trial of primaquine against vivax malaria relapse in Indonesia. Antimicrobial Agents and Chemotherapy. 2013;57(3):1128-1135. 19.White NJ. Determinants of relapse periodicity in Plasmodium vivax malaria. Malaria Journal. 2011;10(1):297. 20.Shanks GD, White NJ. The activation of vivax malaria hypnozoites by infectious diseases. The Lancet Infectious Diseases. 2013;13(10):900-906. 21.Douglas NM, Nosten F, Ashley EA, Phaiphun L, van Vugt M, Singhasivanon P et al. Plasmodium vivaxrecurrence following falciparum and mixed species malaria: Risk factors and effect of antimalarial kinetics. Clin Infect Dis. 2011;52(5):612–620. 22.Looareesuwan S, White NJ, Chittamas S, Bunnag D, Harinasuta T. High rate of Plasmodium vivax relapse following treatment of falciparum malaria in Thailand. Lancet. 1987;2(8567):1052-1055. 23.Betuela I, Rosanas-Urgell A, Kiniboro B, Stanisic DI, Samol L, de Lazzari E et al. Relapses contribute signicantly to the risk of Plasmodium vivaxinfection and disease in Papua New Guinean children 1-5 years of age. The Journal of Infectious Diseases. 2012;206(11):1771-1780. 24.Battle KE, Karhunen MS, Bhatt S, Gething PW, Howes RE, Golding N et al. Geographical variation in Plasmodium vivax relapse. Malaria Journal. 2014;13(1):144. 25.Howes RE, Dewi M, Piel FB, Monteiro WM, Battle KE, Messina JP et al. Spatial distribution of G6PD deciency variants across malaria-endemic regions. Malaria Journal. 2013;12(1):418. 26.Anstey NM, Douglas NM, Poespoprodjo JR, Price RN. Plasmodium vivax: Clinical spectrum, risk factors and pathogenesis. Advances in Parasitology. 2012;80:151-201. 27.Douglas NM, Anstey NM, Angus BJ, Nosten F, Price RN. Artemisinin combination therapy for vivax malaria. The Lancet Infectious Diseases. 2010;10(6):405-416. 28.Baird JK. Evidence and implications of mortality associated with acute Plasmodium vivax malaria. Clinical Microbiology Reviews. 2013;26(1):36-57 29.Douglas NM, Pontororing GJ, Lampah DA, Yeo TW, Kenangalem E, Poespoprodjo JR et al. Mortality attributable to Plasmodium vivax malaria: A clinical audit from Papua, Indonesia. BMC Medicine. 2014;12(1):217. 30.Magris M, Rubio-Palis Y, Alexander N, Ruiz B, Galvan N, Frias D et al. Community-randomized trial of lambdacyhalothrin-treated hammock nets for malaria control in Yanomami communities in the Amazon region of Venezuela. Tropical Medicine & International Health. 2007;12(3):392-403. 31.Sochantha T, Van Bortel W, Savonnaroth S, Marcotty T, Speybroeck N, Coosemans M. Personal protection by long-lasting insecticidal hammocks against the bites of forest malaria vectors. Tropical Medicine & International Health. 2010;15(3):336–341 32.Thang ND, Erhart A, Speybroeck N, Xa NX, Thanh NN, Ky PV et al. Long-Lasting Insecticidal Hammocks for controlling forest malaria: a community-based trial in a rural area of central Vietnam. PLoS one. 2009;4(10):e7369. 33.Rowland M, Downey G, Rab A, Freeman T, Mohammad N, Rehman H et al. DEET mosquito repellent provides personal protection against malaria: a household randomized trial in an Afghan refugee camp in Pakistan. Tropical Medicine & International Health. 2004;9(3):335–342. 34.Rowland M, Durrani N, Hewitt S, Mohammed N, Bouma M, Carneiro I et al. Permethrin-treated chaddars and top-sheets: appropriate technology for protection against malaria in Afghanistan and other complex emergencies. Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene. 1999;93(5):465-472. 35.Chen-Hussey V, Carneiro I, Keomanila H, Gray R, Bannavong S, Phanalasy S et al. Can topical insect repellents reduce malaria? A cluster-randomised controlled trial of the insect repellent N,N-diethyl-m-toluamide (DEET) in Lao PDR. PLoS one. 2013;8(8):e70664. 36.Deressa W, Yihdego YY, Kebede Z, Batisso E, Tekalegne A, Dagne GA. Effect of combining mosquito repellent and insecticide treated net on malaria prevalence in Southern Ethiopia: A cluster-randomised trial. Parasites & Vectors. 2014;7(1):132. 37.Tusting LS, Thwing J, Sinclair D, Fillinger U, Gimnig J, Bonner KE et al. Mosquito larval source management for controlling malaria. Cochrane Database of Systematic Reviews. 2013;8:CD008923. 38.Hewitt S, Rowland M. Control of zoophilic malaria vectors by applying pyrethroid insecticides to cattle. Tropical Medicine & International Health. 1999;4(7):481-486. 39.Mahande AM, Mosha FW, Mahande JM, Kweka EJ. Role of cattle treated with deltamethrine in areas with a high population of Anopheles arabiensisin Moshi, Northern Tanzania. Malaria Journal. 2007;6(1):109. 40.Messenger LA, Matias A, Manana AN, Stiles-Ocran JB, Knowles S, Boakye DA et al. Multicentre studies of insecticide-treated durable wall lining in Africa and South-East Asia: entomological ecacy and household acceptability during one year of eld use. Malaria Journal. 2012;11(1):358. 41.Mittal PK, Sreehari U, Razdan RK, Dash AP. Evaluation of the impact of ZeroFly(R), an insecticide incorporated plastic sheeting on malaria incidence in two temporary labour shelters in India. Journal of Vector Borne Diseases. 2011;48(3):138-143. 42.WHO. Insecticide-treated mosquito nets: A WHO position statement. Geneva, World Health Organization (WHO). 2007. 43.WHO. Indoor residual spraying: An operational manual for IRS for malaria transmission, control and elimination. Geneva, World Health Organization (WHO). 2013. 44.WHO. Guidance for countries on combining indoor residual spraying and long-lasting insecticidal nets. Geneva, World Health Organization (WHO). 2014. 45.WHO. Larval source management: A supplementary measure for malaria vector control. An operational manual. Geneva, World Health Organization (WHO). 2013. 46.Kondrashin A, Baranova AM, Ashley EA, Recht J, White NJ, Sergiev VP. Mass primaquine treatment to eliminate vivax malaria: lessons from the past. Malaria Journal. 2014;13(1):51. 47.Hill DR, Baird JK, Parise ME, Lewis LS, Ryan ET, Magill AJ. Primaquine: report from CDC expert meeting on malaria chemoprophylaxis I. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene. 2006;75(3):402-415. 48.Wongsrichanalai C, Barcus MJ, Muth S, Sutamihardja A, Wernsdorfer WH. A review of malaria diagnostic tools: microscopy and rapid diagnostic test (RDT). The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene. 2007;77(6):119-127. 49.WHO/FIND/CDC. Malaria rapid diagnostic test performance. Results of WHO product testing of malaria RDTs: Round 5 (2013). Geneva, World Health Organization (WHO), FIND (Foundation for Innovative New Diagnostics (FIND) and Centers for Disease Control and Prevention (CDC). 2014 50.WHO. Malaria microscopy quality assurance manual, version 1. Manila, World Health Organization (WHO) Western Pacic Regional Oce. 2009. 51.WHO. Basic malaria microscopy: Part I. Learner’s guide. Second edition. Geneva, World Health Organization (WHO). 2010. 52.Peters AL, Van Noorden CJ. Glucose-6-phosphate dehydrogenase deciency and malaria: cytochemical detection of heterozygous G6PD deciency in women. The Journal of Histochemistry and Cytochemistry. 2009;57(11):1003–1011. 53.Padilla CD, Therrell BL, Working Group of the Asia Pacic Society for Human Genetics on Consolidating Newborn Screening E‑orts in the Asia Pacic R. Consolidating newborn screening e‑orts in the Asia Pacic region: Networking and shared education. Journal of Community Genetics. 2012;3(1):35-45. 54.WHO. Global report on antimalarial drug efficacy and drug resistance: 2000-2010. Geneva, World Health Organization (WHO). 2010. 55.Pukrittayakamee S, Imwong M, Singhasivanon P, Stepniewska K, Day NJ, White NJ. Effects of diffrent antimalarial drugs on gametocyte carriage in P. vivax malaria. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene. 2008;79(3):378–384. 56.Howes RE, Piel FB, Patil AP, Nyangiri OA, Gething PW, Dewi M et al. G6PD deciency prevalence and estimates of affected populations in malaria endemic countries: A geostatistical model-based map. PLoS Medicine. 2012;9(11):e1001339. 57.Galappaththy GNL, Omari AAA, Tharyan P. Primaquine for preventing relapses in people with Plasmodium vivax malaria. Cochrane Database of Systematic Reviews. 2007;(1):CD004389. 58.John GK, Douglas NM, von Seidlein L, Nosten F, Baird JK, White NJ et al. Primaquine radical cure of Plasmodium vivax: A critical review of the literature. Malaria Journal. 2012;11(1):280. 59.WHO. Guidelines for the treatment of malaria, Third edition. Geneva, World Health Organization (WHO). 2015. 60.Lança EFC, Magalhaes BML, Vitor-Silva S, Siqueira AM, Benzecry SG, Alexandre MA et al. Risk factors and characterization of Plasmodium vivax - associated admissions to pediatric intensive care units in the Brazilian Amazon. PLoS one. 2012;7(4):e35406. 61.Lampah DA, Yeo TW, Hardianto SO, Tjitra E, Kenangalem E, Sugiarto P et al. Coma associated with microscopy-diagnosed Plasmodium vivax: A prospective study in Papua, Indonesia. PLoS Neglected Tropical Diseases. 2011;5(6):e1032. 62.Tjitra E, Anstey NM, Sugiarto P, Warikar N, Kenangalem E, Karyana M et al. Multidrug-resistantPlasmodium vivax associated with severe and fatal malaria: A prospective study in Papua, Indonesia. PLoS Medicine. 2008;5(6):e128. 63.WHO. Methods for surveillance of antimalarial drug efficacy. Geneva, WHO, 2009. 64.Rieckmann KH, Davis DR, Hutton DC. Plasmodium vivax resistance to chloroquine? Lancet. 1989; 2(8673):1183–1184 65.Baird JK. Resistance to therapies for infection by Plasmodium vivax. Clinical Microbiology Reviews. 2009;22(3):508–534. 66.Charoenlarp P, Harinasuta T. Relapses of vivax malaria after a conventional course of primaquine and chloroquine: report of 2 cases. The Southeast Asian Journal of Tropical Medicine and Public Health. 1973;4(1):135–137. 67.Goller JL, Jolley D, Ringwald P, Biggs BA. Regional differences in the response of Plasmodium vivax malaria to primaquine as anti-relapse therapy. The American Journal of Tropical Medicine and Hygiene. 2007;76(2):203-207. 68.Bennett JW, Pybus BS, Yadava A, Tosh D, Sousa JC, McCarthy WF et al. Primaquine failure and cytochrome P-450 2D6 in Plasmodium vivax malaria. The New England Journal of Medicine. 2013;369(14):1381–1382. 69.Sharrock WW, Suwanarusk R, Lek-Uthai U, Edstein MD, Kosaisavee V, Travers T et al. Plasmodium vivax trophozoites insensitive to chloroquine. Malaria Journal. 2008;7(1):94 70.WHO. Disease surveillance for malaria control. Geneva, World Health Organization (WHO). 2012 71.WHO. Disease surveillance for malaria elimination: An operational manual. Geneva, World Health Organization (WHO). 2012. 72.WHO. Malaria vaccine technology roadmap. Geneva, World Health Organization (WHO). 2013 73.WHO. Global Technical Strategy for Malaria 2016–2030. Geneva, World Health Organization (WHO). 2015.
|