|
Thử nghiệm chẩn đoán nhanh sốt rét SD Malaria Ag P.f/P.v đang sử dụng hiện nay |
Giá trị của các xét nghiệm chẩn đoán nhanh sốt rét
Để phát hiện và chẩn đoán bệnh sốt rét, ngoài kỹ thuật xét nghiệm truyền thống bằng phương pháp lấy lam máu, nhuộm giemsa và soi dưới kính hiển vi; các cơ sở y tế còn sử dụng những xét nghiệm chẩn đoán nhanh để xác định kết quả nhiễm bệnh. Xét nghiệm chẩn đoán nhanh hiện nay thường sử dụng dựa vào kết quả phát hiện kháng nguyên của ký sinh trùng sốt rét gọi là phương pháp chẩn đoán huyết thanh. Những xét nghiệm này chỉ có một giá trị nhất định.
Chẩn đoán nhanh sốt rét bằng kháng nguyên Theo các nhà khoa học, việc thử nghiệm chẩn đoán nhanh sốt rét (RDTs: rapid diagnostic tests) được xác định bằng nhiều phương pháp chẩn đoán huyết thanh khác nhau, trong đó phương pháp phát hiện các kháng nguyên của ký sinh trùng sốt rét thường được ứng dụng vì khá thuận tiện. Kháng nguyên là protein giàu histidine-2 PfHRP-2 (histidine-rich protein 2 of P. falciparum): Kháng nguyên này lưu thông trong hệ thống tuần hoàn máu của cơ thể được tạo ra bởi thể vô tính và thể giao bào của ký sinh trùng sốt rét trong quá trình phát triển. Kháng thể đơn dòng kháng PfHPR-2 được cố định sẵn trên dãi hấp phụ. Dưới tác dụng của dung dịch đệm và kháng huyết thanh, phản ứng miễn dịch sẽ xảy ra và được ghi nhận kết quả. Hiện nay đã có một số các thử nghiệm chẩn đoán nhanh sốt rét được sử dụng như: Para-sight F và Paracheck P.f do Ấn Độ sản xuất; ICT gồm ICT:P.f, ICT:P.f & P.v do Australia sản xuất; ASSURE do Singapore sản xuất, KAT do Anh quốc sản xuất... Các thử nghiệm này chỉ phát hiện được ký sinh trùng sốt rét P.falciparum và P.vivax. Kháng nguyên là men lactat dehydrogenase LDH: Được sử dụng trong thử nghiệm OptiMAL P.f & P.v do Thụy Sĩ sản xuất dựa trên cơ sở phản ứng kết hợp kháng nguyên - kháng thể đặc hiệu. Trong máu người nhiễm ký sinh trùng sốt rét có kháng nguyên của ký sinh trùng sốt rét, khi tiếp xúc với que thử có gắn kháng thể đặc hiệu với kháng nguyên sẽ cho kết quả. Que thử được đóng trong bộ thử sử dụng thuận tiện và an toàn ở cộng đồng. Thử nghiệm này có ưu điểm là phát hiện được cả 4 chủng loại ký sinh trùng sốt rét P.falciparum, P.vivax, Pl.malariae và P.ovale gây bệnh ở người. Trên que thử có một vạch kháng thể đơn dòng kháng huyết thanh người làm vạch chứng, một vạch kháng thể đơn dòng đặc hiệu với ký sinh trùng sốt rét dương tính với P.falciparum, P.vivax, P.malariae, P.ovale và một vạch kháng thể đặc hiệu riêng đối với P.falciparum. Hiện nay tại nước ta, trong 4 chủng loại ký sinh trùng sốt rét gây bệnh ở người có 2 chủng loại ký sinh trùng sốt rét gây bệnh chủ yếu là P.falciparum và P.vivax. Vì vậy các cơ sở y tế đã được cung cấp loại thử nghiệm chẩn đoán nhanh sốt rét SD BIOLINE Malaria Antigen P.f/P.v do Hàn Quốc và Đức sản xuất để phát hiện ký sinh trùng sốt rét thuộc 2 chủng loại P.falciparum và P.vivax. Thử nghiệm này là một xét nghiệm chẩn đoán nhanh bằng phương pháp định tính phát hiện HRP-II (histidine-rich protein II) đặc hiệu với ký sinh trùng sốt rét P.falciparum và pLDH (plasmodium lactate dehydrogenase) đặc hiệu với ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax trong máu người. Kết quả được đọc trên que thử nghiệm sau 15 đến 30 phút sau khi thực hiện kỹ thuật, lưu ý không nên đọc sau 30 phút vì nếu đọc quá muộn có thể ghi nhận sai kết quả. Giá trị của các thử nghiệm chẩn đoán nhanh sốt rét Các thử nghiệm chẩn đoán huyết thanh dùng để chẩn đoán nhanh sốt rét đã nêu ở trên chỉ có giá trị sử dụng giới hạn trong những trường hợp cần chẩn đoán nhanh sốt rét và khẩn cấp vì các thử nghiệm này chỉ cho kết quả dương tính nhiều ngày sau khi xuất hiện ký sinh trùng sốt rét ở trong máu. Vì vậy những thử nghiệm chẩn đoán nhanh không thể thay thế kỹ thuật xét nghiệm truyền thống lấy lam máu, nhuộm giemsa và soi tìm ký sinh trùng sốt rét dưới kính hiển vi. Tuy nhiên thử nghiệm chẩn đoán nhanh sốt rét có một giá trị không thể phủ nhận được trong nghiên cứu dịch tễ học. Thực tế cần phải lựa chọn thử nghiệm nào mang tính thực tiễn và nhạy cảm nhất với sự cung cấp nhiều thông tin có giá trị nhưng đồng thời cũng phải đánh giá được những bất lợi của thử nghiệm với những phản ứng dương tính giả. Hiện nay thử nghiệm chẩn đoán nhanh sốt rét được ứng dụng để phát hiện người bệnh mắc sốt rét ở những vùng sốt rét lưu hành quá xa xôi, việc đi lại khó khăn, dân cư sống thưa thớt, trạm y tế không có điểm kính hiển vi hoặc có điểm kính hiển vi nhưng không phát huy được năng lực hoạt động, thôn bản ở cách xa điểm kính hiển vi trên 1 giờ đi bộ; đồng thời thử nghiệm cũng được dùng để chẩn đoán nhanh khi cần thiết và phát hiện các trường hợp nghi ngờ mắc sốt rét ác tính nhưng không phát hiện thấy ký sinh trùng sốt rét trên lam máu xét nghiệm bằng phương pháp kỹ thuật truyền thống. Ngoài ra, thử nghiệm còn được sử dụng để chẩn đoán hồi cứu gần sau từ 2 đến 3 tuần kể từ khi bệnh nhân hết sốt. Các cơ sở y tế cần lưu ý chỉ nên dùng các xét nghiệm phát hiện kháng nguyên để chẩn đoán xác định trường hợp mắc sốt rét, không được sử dụng các xét nghiệm kháng thể để xác định.
|