|
Sốt rét ác tính thể não có thể gây biến chứng hô hấp với nguy cơ dẫn đến tử vong (ảnh minh họa) |
Biến chứng hô hấp trong sốt rét ác tính thể não
Một trong những biến chứng gây tử vong trong sốt rét ác tính thể não là biến chứng hô hấp. Có thể nói đây là biến chứng khá phổ biến của sốt rét ác tính thể não; đứng sau biến chứng rối loạn nước và chất điện giải, rối loạn tiêu hóa, suy thận cấp với nhiều dạng khác nhau. Cần chủ động ngăn ngừa biến chứng này để hạn chế tử vong.
Các biến chứng hô hấp ghi nhận Biến chứng hô hấp trong sốt rét ác tính thể não bao gồm tình trạng rối loạn hô hấp thường được ghi nhận với hiện tượng ứ đọng đờm dãi gây suy thở do ùn tắc đường hô hấp, viêm phế quản và phổi bội nhiễm, phù phổi cấp, suy hô hấp do nhiễm toan chuyển hóa. Ứ đọng đờm dãi gây suy thở: Đây là biến chứng thường gặp nhất do tình trạng ùn tắc đường hô hấp trên, bệnh nhân có triệu chứng thở khò khè và dấu hiệu đe dọa ngạt thở. Nguyên nhân gây nên do người bệnh bị hôn mê sâu, mất phản xạ nuốt hoặc tụt cuống lưỡi nên bị ứ đọng nước bọt, đờm dãi hoặc vì co thắt thanh khí quản trong các cơn co giật; nếu trường hợp này kéo dài sẽ dẫn đến viêm phế quản - phổi. Viêm phế quản - phổi bội nhiễm: Tình trạng này dễ xảy ra khi bệnh nhân bị hôn mê kéo dài, nằm lâu ở một tư thế làm ùn tắc đờm dãi kéo dài, hút đờm dãi không bảo đảm vô khuẩn. Trên thực tế biến chứng này khó phát hiện sớm bằng ống nghe và quan sát, thông thường việc chẩn đoán căn cứ vào phim chụp X quang phổi và xét nghiệm máu thấy tăng bạch cầu chuyển trái. Phù phổi cấp tính:Đây là một biến chứng rất nguy kịch mặc dù hiếm gặp nhưng trên thực tế cũng đã ghi nhận biến chứng này ở những bệnh nhân sốt rét ác tính, chiếm tỷ lệ khoảng 0,4 đến 2% các trường hợp với tiên lượng rất dè dặt. Dấu hiệu xuất hiện sớm nhất là khó thở nhanh, có nhiều ran khô ẩm ở cả hai lá phổi, mạch nhanh và nhỏ, môi tím tái, sùi nước bọt màu hồng bất thường vì bị tình trạng ứ đọng trong huyết quản phổi ở mức độ trung bình, bệnh nhân thường bị tử vong nhanh trước khi bọt màu hồng trào lên miệng; cần phân biệt với phế quản phế viêm, đôi khi phải dựa vào phim chụp X quang phổi, thường tương tự giống như hội chứng suy hô hấp cấp tính tiến triển (ARDS: acute respiratory distress syndrome). Nguyên nhân phát sinh có hai khả năng: Nếu áp lực tĩnh mạch trung tâm (CVP: central vennous pressure) bình thường thì thường là phù phổi cấp do căn nguyên sốt rét. Nếu áp lực tình mạch trung tâm cao hoặc áp lực mao mạch phổi cao kèm theo tình trạng thừa nước có thể phù phổi do quá tải dịch truyền, căn nguyên này ngày càng hiếm gặp. Phù phổi cấp tính gặp trong bệnh sốt rét thường liên quan đến một số yếu tố tạo điều kiện thuận lợi như mật độ ký sinh trùng sốt rét cao, suy thận cấp, hạ đường huyết, toan chuyển hóa, phụ nữ có thai sau khi sinh. Tình trạng thiếu oxy nặng hơn có thể gây nên co giật và hôn mê sâu hơn. Biến chứng phù phổi cấp tính trong sốt rét và sốt rét ác tính có thể có hai cơ chế: Do rối loạn vi tuần hoàn nặng ở huyết quản phổi, mao mạch phế nang ứ đầy đại thực bào chứa sắc tố ký sinh trùng sốt rét, hồng cầu bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét dính kết tại thành mao quản gây tắc nghẽn vi mạch, tăng tính thấm mao quản phổi, các yếu tố trên đã gây thoát huyết tương vào phế nang; bạch huyết quản lúc đầu bị giãn rồi cũng bị bít lại, các phế nang đầy dịch tiết; từ đó có thể xuất hiện phù phổi cấp tính do tình trạng tràn huyết tương vào phế nang, không có suy tim trái. Do truyền dịch quá tải không theo dõi áp lực tĩnh mạch trung tâm, đây là trường hợp phù phổi cấp tính do truyền dịch nhưng hiện nay hiếm ghi nhận. Suy hô hấp do nhiễm toan chuyển hóa: Một số trường hợp bệnh rất nặng có thể do tình trạng nhiễm toan chuyển hóa cao, có rối loạn nhịp thở kiểu Cheynes - Stokes hoặc Kussmaul. Trường hợp suy hô hấp này có nguyên nhân từ não bị nhiễm toan và cũng thường ít gặp. Xử trí can thiệp điều trị Theo hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh sốt rét được Bộ Y tế ban hành, việc xử trí can thiệp điều trị biến chứng hô hấp, cụ thể là tình trạng suy hô hấp phải được thực hiện một cách kịp thời ngay sau khi phát hiện dấu hiệu tại các cơ sở y tế để chủ động ngăn ngừa nguy cơ dẫn đến tử vong. Phải đặt ống thông canule miệng - họng, hút đờm dãi miệng - họng, cho bệnh nhân nằm đầu cao với góc 30 - 45 độ, đặt ống thông dạ dày để cho ăn qua ống, cho thở oxy với 4 - 6 lít/phút và duy trì áp lực nồng độ oxy trong máu SpO2 trên 92%. Nếu người bệnh hôn mê với điểm Glasgow từ 10 điểm trở xuống thì phải đặt nội khí quản, cho thở máy với thể tích lưu thông 6 ml/kg cân nặng, tần số từ 16 - 20 lần/phút; nồng độ oxy trong hỗn hợp khí thở vào FiO2 (fraction of inspired oxygen) 50%, áp lực dương cuối thì thở ra (PEEP: positive endexpiratory pressure) 5cm nước. Nếu tổn thương phổi nặng, tỷ lệ áp lực đỉnh/tần số thở P/F (pressure/frequence) dưới 300 thì phải cho thở máy theo phương thức điều trị hội chứng suy hô hấp cấp tính tiến triển (ARDS: acute respiratory distress syndrome).Có thể sử dụng kháng sinh khi có bội nhiễm phổi. Lưu ý trong khi điều trị can thiệp biến chứng suy hô hấp nên hạn chế mở khí quản và dùng thuốc ức chế hô hấp.
|