Ca bệnh tràn dịch màng phổi do giun đầu gai Gnathostoma spinigerum tăng bạch cầu ái toan
Bệnh do ấu trùng giun đầu gai, đặc biệt do loài Gnathostoma spinigerum (Eosinophilic pleural effusion and haematospermia in gnathostomiasis)không còn xa lạ với các nhà ký sinh trùng lâm sàng bởi đây là căn bệnh khá nguy hiểm do các biến chứng của chúng trên hệ thần kinh trung ương, thậm chí để lại di chứng và có thể tử vong nếu không chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời. Trong lâm sàng điều trị các bệnh lý ky sinh trùng tại Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn đã gặp nhiều ca có biến chứng ở phủ tạng, kể cả gan và phổi. Nhân đây ca bệnh nhiễm trùng giun đầu gai từ Việt Nam trở về Pháp có biến chứng tràn dịch màng phổi và xuất tinh có máu xem như là một ca bệnh hiếm gặp, xin chia sẻ cùng đồng nghiệp. Trình bày ca bệnh Một bệnh nhân nam 66 tuổi đang sống tại Marseille, Pháp có tiền sử bệnh sốt đã 8 ngày qua. Anh ta có đi du lịch ở Việt Nam 4 tuần ở thành phố Hồ Chí Minh và 2 ngày ở các tỉnh thuộc đồng bằng sông Mê Kông. Trong suốt chuyến đi hoàn toàn khỏe mạnh và không có bị vết đốt do côn trùng nào cả, ngoại trừ muỗi. Không có tiền sử tiếp xúc hay phơi nhiễm da với môi trường nước sông ở Việt Nam. Tại Việt Nam, các món ăn mà bệnh nhân thưởng thức gồm cơm, cá, thịt heo, tôm và gà. Các triệu chứng của anh ta bắt đầu 3 tuần sau khi trở về Marseille từ Việt Nam như sốt 380C, suy nhược cơ thể, rét run một này, khó thở vừa, đau nhẹ hai bên tính hoàn thoáng qua và có giai đoạn xuất tinh có máu. Bệnh nhân được gia đình đưa đến bác sỹ chuyên khoa truyền nhiễm và các bệnh nhiệt đới để khám và điều trị. Hình 1
Lúc nhập viện, thân nhiệt bệnh nhân là 380C. Khám thực thể cho thấy: + Tinh hoàn bình thường; + Tiếng thổi tâm thu ở tim (systolic murmur); + Tràn dịch màng phổi bên trái và hiện tượng tràn dịch này sau đó được khẳng định bởi X-quang cũng cho thấy hình ảnh thâm nhiễm hai bên phổi lan tỏa, không liên tục; + Xét nghiệm máu toàn phần thường quy cho thấy tăng chỉ số bạch cầu ái toan; + Lấy lam máu làm xét nghiệm chẩn đoán sốt rét và giun chỉ đều âm tính: + Xét nghiệm nước tiểu và khảo sát hệ thận tiết niệu, kể cả siêu âm và xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu tiền liệt tuyến PSA (prostate-specific antigen) cho thấy không có bất thường; + Có u tế bào tuyến ở tuyến tiền liệt sẵn có trước đó; + Không có trứng ký sinh trùng trong mẫu phân hay trong nước tiểu, mặc dù đã làm bệnh phẩm ly tâm và lắng cặn nước tiểu; + Sau khi chọc dịch màng phổi, lấy 100 mLdịch, phân tích tế bào học thấy có tăng bạch cầu ái toan 5.800/L không kèm theo ký sinh trùng; + Nuôi cấy vi khuẩn, kể cả vi khuẩn lao âm tính. Vào ngày thứ 4, bệnh nhân không còn sốt và cho xuất viện. Vào lúc nhập viện, mẫu máu bệnh nhân có thực hiện xét nghiệm miễn dịch với sán máng, sán lá phổi, ấu trùng giun lươn, ấu trùng sán dây lợn, giun xoắn, ấu trùng giun đầu gai, giun chỉ và ấu trùng giun đũa chó mèo. Hình 2
Một tháng sau đó, bạch cầu ái toan của bệnh nhân giảm còn 1.8x 109/L, không còn sốt nhưng than phiền về dấu mệt mỏi, suy nhược. Tiếp tục xét nghiệm một bộ huyết thanh chẩn đoán giun sán, đặc biệt có Western blot assay cho bệnh ấu trùng giun đầu gai làm ở Viện Nghiên cứu Nhiệt đới Thụy Sỹ (Swiss Tropical Institute) dương tính, cho thấy phản ứng IgG với 4 băng đặc hiệu gồm cả dải băng 24-kDa, khi đó cho kết luận chẩn đoán nhiễm trùng giun đầu gai Gnathostoma spp. Sự chuyển đổi huyết thanh xác định chẩn đoán chính xác bệnh giun đầu gai sau điều trị. Tất cả test huyết thanh còn lại đều cho kết quả âm tính, ngoại trừ gia tăng kháng thể chống lại Acanthocheilonema vitae như một kháng nguyên không đặc hiệu để sàng lọc giun chỉ (Laboratoire Marcel Merieux, Lyon, Pháp). Sau 21 ngày điều trị bằng thuốc albendazole và 1 liều duy nhất ivermectin, đếm bạch cầu ái toan của bệnh nhân trở về bình thường 0.8 x 109/L. Một số bàn luận ca bệnh Ba khía cạnh của bệnh giun đầu gai như là một bệnh lý ngoại lai đang nổi lên theo ý kiến của các chuyên gia bệnh truyền nhiễm hiện nay (Moore và cs., 2007). Trước hết, các dấu lâm sàng ttreen ca bệnh này là bất thường, không gặp thường quy trong thực hành lâm sàng. Phóng tinh có máu thường là lành tính và nguyên nhân nổi trội nhất là bệnh lý xoắn tinh hoàn và mào tinh hoàn. Nhiễm trùng, chủ yếu là do sán máng và lao có liên quan ddenss các triệu chứng trên. Mặc dù, bệnh nhân ở đây có u tế bào tuyến ở tuyến tiền liệt (prostatic adenoma), đây là lần đầu tiên xuất tính có máu (hemospermia) có liên quan đến nhiễm trùng giun đầu gai. Vì sự lo lắng khi thấy xuất tính có máu nên dấu chứng này là nguyên nhân chính khiến bệnh nhân đi khám và nhòe đến sự tư vấn. Thứ hai, tràn dịch màng phổi cũng là nguyên nhân không phải gặp thường xuyên trong bệnh giun đầu gai. Mặc dù các báo cáo như một nguyên nhân tiềm tàng ở trong các sách y văn, một nghiên cứu trên Medline với từ khóa (gnathostomiasis and eosinophilia and pleural effusion or pleuritis or lung) đã giúp tra cứu tài liệu và cho thấy có 2 tài liệu tham khảo tràn dịch màng phổi như là một triệu chứng của bệnh do ấu trùng giun đầu gai. Hình 3
Đáp ứng giữa phổi và màng phổi tăng bạch cầu ái toan có thể gây ra bởi ấu trùng giun sán đi theo dòng máu đến phổi và màng phổi như một mô thức lạc chỗ (aberrant fashion). Điểm nhấn mạnh ở đây rằng bệnh nhân đã có tiền sử du lịch ở các quốc gia nhiệt đới, chủ yếu là Đông Nam Á và Trung hoặc Nam Mỹ, nên việc thử huyết thanh bệnh nhân tìm ấu trùng giun đầu gai là cần thiết. Mặc dù, một số ca cho thấy thể di chuyển do giun đầu gai ngoài da điển hình có liên quan đến tăng bạch cầu ái toan, nên hầu hết các thể không điển hình là có thể bị bỏ sót chẩn đoán và các biến chứng liên quan đến hệ thần kinh có thể xảy ra nếu không hoặc điều trị không kịp thời. Tuy nhiên, đến khi xét nghiệm huyết thanh đặc hiệu gần đây cho riêng bệnh giun đầu gai sẵn có ở châu Á, nhất là Thái Lan và Nhật Bản. Một số la bô khác ở châu Âu hiện đang triển khai với bệnh giun đầu gai, nên các chẩn đoán ngày càng có giá trị, đặc biệt trên các bệnh nhân có tiền sử du lịch tại các vùng bệnh lưu hành trở về. Tài liệu tham khảo 1.Moore DA, McCroddan J, Chiodini PL. Gnathostomiasis: an emerging imported disease. Emerg Infect Dis. 2003;9:647-50. 2.Mulhall JP, Albertsen PC. Hemospermia: diagnosis and management. Urology. 1995;46:463-7. 3.Wilson ME, Weller PF. Eosinophilia. Tropical infectious diseases. In: Guerrant RL, Walker DH, Weller PF, editors. Principles, pathogens, and practice. Philadelphia: Churchill Livingstone; 1999. p. 140-19. 4.Dow C, Chiodini PL, Haines AJ, Michelson SM, Human gnathostomiasis. J Infect. 1988;I 7:147-9. 5.Nagler A, Pollack S, Hassoun G, Kerner H, Barzilai D, Lengy J. Human pleuropulmonary gnathostomiasis: a case report from Israel. Isr J Med Sci. 1983;19:834-7. 6.Menard A, Dos Santos G, Dekumyoy P, Ranque S, Delmont J, Danis M, et al. Imported cutaneous gnathostomiasis: report of five cases. Trans R Soc Trop Med Hyg. 2003;97:200-2. 7.Parola P. Gnathostomiasis, Lancet. 2001;358:332.
|