Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 22/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 1 6 9 7 2 2
Số người đang truy cập
4 7 3
 Chuyên đề Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ứng viên thay thế primaquin với điều trị ngắn ngày: đạt được sự tuân thủ và chấp thuận của bệnh nhân sốt rét

Tafenoquine là một loại thuốc thuộc nhóm 8-aminoquinolin sản xuất bởi công ty GlaxoSmithKline sau khi đánh giá có tác dụng như một liệu pháp điều trị tiềm năng cho căn bệnh sốt rét cũng như ngăn ngừa sốt rét do chúng diệt thể ngủ và chống tái phát xa. Chỉ định điêu trị cho thuốc Tafenoquin là diệt thể ngủ cả Plasmodium vivaxPlasmodium ovale vì đây là hai loài ký sịnh trùng gây tái phát trong máu sau khi đã hoàn tất liệu trình thành công.

Thuốc giờ đây chỉ định chỉ có duy nhất thay cho liệu pháp primaquine 14 ngày, nhưng thuốc hiện vẫn còn đang trong giai đoạn nghiên cứu thử nghiệm chứ chưa đưa ra sử dụng rộng rãi.

Lợi điểm chính của thuốc Tafenoquine là thời gian bán hủy dài (2-3 tuần) và do đó điều trị liều duy nhất có thể đủ làm sạch thể ngủ. Tương tự thuốc primaquine, thì thuốc tafenoquine cũng gây tán huyết trên những bệnh nhân thiếu men G6PD. Ngoài ra, do thời gian bán hủy kéo dài của tafenoquine nên cần sự chăm sóc đặc biệt để đảm bảo các cá nhân có thiếu men G6PD nghiêm trọng không nên dùng thuốc. Liều thuốc tafenoquine chưa xác định một cách đầy đủ, nhưng điều trị sốt rét do P. vivax với một liều 800 mg trong 3 ngày đã từng dùng.

Điểm mới về điều trị tận gốc P. vivaxP. vivax xuất hiện kháng primaquin

Hiện tại chloroquine (CQ) và primaquin phosphate (PQ) là thuốc dùng để điều trị thể vô tính và diệt tận gốc ngăn ngừa tái hoạt thể ngủ của của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax (P. vivax) tác động trên các thể ngoại hồng cầu, phá hủy các thể ngủ tiềm tàng nên chúng có khả năng ngăn ngừa P. vivax tái phát.


Hình 1

Liệu pháp PQ hiện hành có thể làm tăng hoạt tính của CQ chống lại sự kháng thuốc của KSTSR P. vivax ở giai đoạn trong hồng cầu (Pukrittayakamee và cs., 1994; Baird và cs., 1995). Dù nhiều báo cáo các vùng địa lý khác nhau thấy P. vivax kháng PQ nhất là tại Indonesia, song bằng chứng tin cậy thì chưa thuyết phục vì do nhiều yếu tố can thiệp như điều trị không có giám sát, dung nạp từ KST, khả năng tái nhiễm.

Tái phát có thể xảy ra sớm hoặc muộn (16 ngày đến 3 năm) kể từ khi lần nhiễm SR đầu tiên, ngay cả khi đã điều trị đủ liều. Do đó, các thử nghiệm lâm sàng nếu cho rằng kháng PQ thì xác định là lam máu vẫn dương tính với P. vivax sau khi đã điều trị đủ liều chuẩn và có điều trị PQ đủ liệu trình (14 ngày theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới) trong suốt quá trình theo dõi. Điều này sẽ khó khả thi vì sự chấp thuận của đối tượng nghiên cứu cũng như bệnh nhân điều trị và nhận điều trị khi họ đã không còn sốt nữa, nhất là bệnh nhân ở các vùng sâu vùng xa và nhóm dân tộc thiểu số có sự tuân thủ không đầy đủ.

Thuốc mới Tafenoquine: Tiềm năng thay thế và chấp nhận của bệnh nhân P. vivax

Theo thông tin từ giáo sư Ric Price thuộc trung tâm nghiên cứu y học nhiệt đới của ĐH Oxford, Anh cho thấy 40% dân số thế giới có nguy cơ nhiễm ký sinh trùng Plasmodium vivax. Không như P. falciparum, loài P. vivax có thể ngủ và bị đánh thức dậy trong gan sau vài taaufn đến vài tháng kể từ khi có triệu chứng nhiễm đầu tiên đã điều trị khỏi. Các tình trạng nhiễm trùng tái phát này đã cho phép ký sinh trùng sống sót trong thời gian dài trong điều kiện muỗi ít (như các tháng mùa đông hay nhiệt độ ôn đới). Khả năng tồn tại của thể ngủ như vậy đã khiến cho sốt rét do P. vivax sẽ khó loại trừ hơn so với sốt rét P. falciparum.


Hình 2

Tại nhiều nơi có can thiệp của chương trình PCSR tích cực đang làm giảm tỷ lệ mắc sốt rét do P. falciparum nhưng đối với P. vivax thì chưa, điều này đang trở thành điểm nổi bật về sốt rét ở các quốc gia châu Phi. Tại nhiều vùng, P. vivax tái phát là một nguyên nhân chính của gánh nặng bệnh tật ở trẻ em nhỏ, dẫn đến nhiều cơn sốt chồng cơn, dẫn đến thiếu máu và dễ mắc các bệnh nhiếm trùng khác đi kèm theo.

Hầu hết các thuốc sốt rétcó đích tác dụng trên ký sinh trùng cụ thể vào các giai đoạn, nhưng hầu như không có thuốc nào trong số chúng có tác động lên thể ngủ trong gan của P. vivax. Hơn 60 năm qua, điều trị tiệt căn P. vivax là dựa vào thuốc chloroquine để diệt thể vô tính trong máu và thuốc primaquine loại bỏ thể ngủ. Tuy nhiên, primaquine (PQ) đòi hỏi liệu trình dài 14 ngày và vì bệnh nhân thường chỉ dùng một vài ngày rồi bỏ, nên họ khó có thể tiếp tục hoàn tất liệu trình đầy đủ của PQ.

Tafenoquine là một thuốc có tác dụng kéo dài cùng nhóm với PQ. Nó đã suy giảm trong quá trình phát triển 20 năm qua, nhưng gần đây quay trở lại với các ưu thế trong hợp chất vì nó có tiềm năng điều trị thể ngủ của P. vivax với liều duy nhất.

Trong một nghiên cứu gần đây ở đa trung tâm ấn bản trên tạp chí The Lancet cho biết liều duy nhất 300mg tafenoquine làm giảm nguy cơ tái xuất hiện ký sinh trùng trong vòng 6 tháng sau điều trị đến 10% so với 60% ở nhóm chỉ dùng đơn thuần chloroquin. Các nghiên cứu tiếp theo giờ đây đang điều tra thêm về vai trò của thuốc tafenoquine độ an toàn và hiệu quả của thuốc như PQ.


Hình 3

Nếu các thử nghiệm lâm sàng tiếp theo có thể xác định tính an toàn và so sánh hiệu lực với các lựa chọn điều trị hiện nay và thuốc có thể triển khai dùng rộng rãi, thì liều dùng duy nhất của tafenoquine sẽ có tiềm năng điều trị hiệu quả và tiệt căn cho sốt rét P. vivax và sẽ là công cụ quan trọng trong cuộc chiến loại trừ sốt rét.

Một điểm mới trong nghiên cứu P. vivax thời gian qua về hiệu lực thuốc PQ cũng cho thấy có tỷ lệ kháng của P. vivax. Do đó, nhiều thử nghiệm lâm sàng một thuốc mới như Tafenoquine thuộc nhóm 8-aminoquinolein, cũng là một đồng phân với primaquin, có công thức phân tử 8-(4–amino-1-methylbutyl) amino-2,6-dimethoxhy-4 methyl-5-(3-trifluoromethylphenoxy) quinoline succinate), thuốc tác động thông qua cơ chế tích tụ thuốc trong khoang không bào của KST, gây khử động heme, ức chế hình thành hemozoine.


Hình 4

Thử nghiệm điều trị P. vivax liệu trình 3 ngày với tổng liều 800mg thay vì CQ liều 1500mg liệu trình 3 ngày và PRQ 420mg trong 14 ngày. Kết quả bước đầu của hãng dược phẩm Glaxo Smith Kline (GSK) và Tổ chức nghiên cứu sốt rét Medicines for Malaria Venture (MMV) trong pha I và II cho hiệu quả vừa đáp ứng lâm sàng tốt, vừa không thấy tái phát sớm cũng như tái phát xa. Các nghiên cứu in vitro, cũng chỉ ra hoạt tính chống lại thoi trùng và giao bào nên có tiềm năng cắt lan truyền bệnh.

Trong các nghiên cứu tiền lâm sàng, tafenoquine cho thấy nồng độ trong máu và mô cao gấp 3-67 lần so với PQ và các nghiên cứu in vitro có tác động cộng lực với hoạt tính của CQ và artemisinin, nên khi phối hợp sẽ cho hiệu quả tối ưu. Các nghiên cứu tiếp theo phase III chuẩn bị triển khai vào tháng 5.2014 tại đa quốc gia, trong đó có Việt Nam và pha này tiếp tục đánh giá trên nhóm phụ nữ mang thai và đối với nhóm đối tượng thiếu men G6PD.

Quý đồng nghiệp và bạn đọc quan tâm về sốt rét do P. vivax này có thể tham khảo các thông tin liên quan đến P. vivax trong Hội nghị về nghiên cứu sốt rét P. vivax tại Brazil trong tháng 6/2017 vừa qua (International Conference o­n Plasmodium vivax Research, Manaus, Brazil)



Tài liệu tham khảo

1.Peters W (1999). The evolution of tafenoquine-antimalarial for a new millennium?. J R Soc Med. 92 (7): 345-52.

2.Shanks GD, Oloo AJ, Aleman GM, et al. (2001). A New Primaquine Analogue, Tafenoquine, for prophylaxis against Plasmodium falciparum malaria". Clin Infect Dis. 33 (12): 1968-74.

3.Lell B, Faucher JF, Missinou MA, et al. (2000). Malaria chemoprophylaxis with tafenoquine: A randomised study. Lancet. 355 (9220): 2041-5.

4.Elmes NJ, Nasveld PE, Kitchener SJ, Kocisko DA, Edstein MD (2008). The efficacy and tolerability of three different regimens of tafenoquine versus primaquine for post-exposure prophylaxis of Plasmodium vivax malaria in the Southwest Pacific". Transactions of the Royal Society of Tropical Medicine and Hygiene. 102(11):1095-101.

5.Nasvelda P, Kitchener S (2005).Treatment of acute vivax malaria with tafenoquine. Trans R Soc Trop Med Hyg. 99 (1): 2-5.

 

Ngày 26/06/2017
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích