Thuốc Kozenis (tafenoquine) đã được TGA Úc phê duyệt điều trị tiệt căn sốt rét P. vivax
Sự kiện phê duyệt này đánh dấu một bước tiến quan trọng trong nỗ lực tiêu diệt sốt rét toàn cầu và sẽ hỗ trợ đắc lực trong việc xin cấp phép dùng thuốc tại các quốc gia sốt rét lưu hành GSK và tổ chức Medicines for Malaria Venture (MMV) ngày hôm nay đã công bố rằng cơ quan Quản lý Sản phẩm Trị liệu Úc (TGA) đã vừa phê duyệt thuốc Kozenis (tafenoquine) đơn liều dùng điều trị tiệt căn (ngăn ngừa tái phát) sốt rét Plasmodium vivax (P. vivax) cho các bệnh nhân tuổi từ 16 trở lên và đang trong liệu trình điều trị sốt rét phù hợp đối với giai đoạn nhiễm P. vivax cấp tính. Anne Belcher, Phó chủ tịch và là Tổng giám đốc GSK tại Úc cho biết, “Chúng tôi rất vui mừng đạt được sự phê duyệt tafenoquine đơn liều này. Bên cạnh việc cung cấp thêm một tuỳ chọn điều trị cho các bệnh nhân nhiễm P. vivax tại Úc, thì sự kiện TGA phê duyệt thuốc Kozenis này sẽ hữu ích đối với việc đệ trình xin phép sử dụng thuốc này tại các quốc gia lưu hành sốt rét P. vivax nơi còn thiếu hụt các liệu pháp điều trị đơn giản và hiệu quả.Khi cộng tác với đối tác MMV,chúng tôi có mục tiêu là giúp các bệnh nhân tại các quốc gia này được tiếp cận với tafenoquine ở một mức giá phải chăng và đây cũng là một phần trong nỗ lực toàn cầu trong việc tiêu diệt sốt rét. David Reddy, Tổng giám đốc MMV cho biết, “MMV hoàn toàn hoan nghênh sự phê duyệt của TGA đối với tafenoquine trong việc điều trị sốt rét tái phát. Cùng với sự phê duyệt gần đây bởi FDA Hoa Kỳ, sự cho phép này của Úc góp phần nhấn mạnh thêm tầm quan trọng và lợi ích của loại thuốc quan trọng này đối với những người đang bị sốt rét P. vivax hành hạ. Sau lần cộng tác chặt chẽ với đối tác GSK để đạt được những thành công đối với thuốc tafenoquine này, chúng tôi sẽ nhanh chóng làm việc với các nhà chức trách địa phương và các Chương trình Phòng chống Sốt rét Quốc gia tại các quốc gia lưu hành P. vivax để cùng nhau đưa loại thuốc đơn liều mới này đến tay những bệnh nhân đang cần nó. Sự phê duyệt này của TGA cũng dựa trên dữ liệu về tính an toàn và hiệu lực từ một chương trình phát triển lâm sàng toàn cầu toàn diện để phát triểnloại thuốc điều trị tiệt căn P. vivaxđáp ứng được các chỉ số về biên dạng lợi ích-rủi ro tích cực.30 nghiên cứu trên các tình nguyên viên khoẻ mạnh và bệnh nhân đã trực tiếp hỗ trợ chương trình này. Các bằng chứng ban đầu đối với tính an toàn và hiệu lực lâm sàng của liều đơn 300mg, được dùng trên 800 đối tượng, đã được chứng minhbởi3 nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên: DETECTIVE Part 1 và Part 2 (TAF112582) và GATHER (TAF116564). Các kết quả của hai nghiên cứu giai đoạn III này đã được công bố vào năm 2017. Việc đệ trình xin cấp phép bao gồm dữ liệu được phân tích từ tổng cộng 33 nghiên cứu có sự tham gia của hơn 4.000 đối tượng thử nghiệm đã dùng đơn liều 300mg và các liều tafenoquine khác. Quyết định của TGA theo sau khi FDA Hoa Kỳphê duyệt tafenoquine (Krintafel) vào ngày 20 tháng 7 năm 2018. Sự phê duyệt bởi FDA và TGA sẽ có ích chođánh giá của các cơ quan lập pháp tại các quốc gia sốt rét lưu hành. Tại các quốc gia này, tafenoquine sẽ được cung cấp ở một mức giá phải chăng để tối đa hoá khả năng tiếp cận thuốc cho những người cần nó nhất. Sau khi TGA phê duyệt, GSK đang có kế hoạch cung cấp cho Úc vào năm 2019. Thông tin về Kozenis (tafenoquine) Kozenis là một dẫn xuất 8-aminoquinoline có hoạt tính chống lại tất cả các chu kỳ của vòng đời P. vixax, bao gồm cả thể ngủ (hypnozoites). Thuốc này ban đầu được tổng hợp bởi các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu Quân đội Walter Reed vào năm 1978. Đây chính là sự khởi đầu từ 20 năm trước đặt nền móng cho GSK nghiên cứu và phát triển tafenoquine trở thành một loại thuốc chữa sốt rét. Trong năm 2008, GSK đã cộng tác với một đối tác nghiên cứu thuốc phi lợi nhuận, MMV, để phát triển tafenoquine trở thành một loại thuốc chống tái phát cho các bệnh nhân đã nhiễm P. vivax. Chương trình lâm sàng tafenoquine là một phần trong chương trình y tế toàn cầu của GSK nhắm đến việc nâng cao chăm sóc y tế cho các quần thể bị ảnh hưởng nặng nhất. Thông tin về sốt rét Plasmodium vivax Sốt rét P. vivax có tác động lớn đối với kinh tế và y tế công cộng, chủ yếu là ở Nam Á, Đông Nam Á, châu Mỹ La-tinh và vùng Sừng châu Phi. Căn bệnh này được ước tính gây ra khoảng 8,5 triệu ca nhiễm lâm sàng mỗi năm.1 Người ta ước tính rằng 38% số ca sốt rét tại châu Úc là do P. vivax2 gây ra. Các đặc điểm lâm sàng của sốt rét P. vivax bao gồm sốt, ớn lạnh, nôn mửa, suy nhược, đau đầu và đau cơ, và trong một số trường hợp là dẫn đến số rét ác tính và tử vong.3 Ký sinh trùng sốt rét Plasmodium là một sinh vật phức tạp với vòng đời kéo dài từ trên con người sang loài muỗi.4 Sau khi bị một con muỗi nhiễm bệnh đốt, ký sinh trùngP. vivax xâm nhập vào máu và gây ra giai đoạn sốt rét cấp tính. Nó cũng có khả năng ẩn nấp trong gan (dưới dạng gọi là thể ngủ hypnozoite) và từ đó nó tái hoạt động theo chu kỳ gây ra các đợt tái phát sốt rét P. vivax. Do đó, một lần nhiễm P. vivax cũng thể gây ra nhiều đợt tái phát nhiễm sốt rét, mà không hề bị vết muỗi đốt mới nào. Các đợt tái phát này có thể xảy ra sau nhiều tuần, tháng hoặc thậm chí nhiều năm sau lần nhiễm ban đầu. Thể ngủ trong gan của ký sinh trùng hiện nay không thể được điều trị bằng hầu hết các loại thuốc sốt rét dùng điều trị ký sinh trùng giai đoạn trong máu. Việc sử dụng một loại thuốc nhắm vào thể ngủ trong gan của ký sinh trùng, được dùng kèm với các loại thuốc sốt rét có sẵn hiện nay như là chloroquine hoặc các liệu pháp kết hợp thuốc có gốc artemisinin (ACTs) được coi là một biện pháp điều trị tiệt căn. Cho tới hiện nay, loại thuốc primaquine, 8-aminoquinoline, là loại thuốc duy nhất được phê duyệt điều trị giai đoạn thể ngủ trong gan để phòng ngừa tái phát.5 Tuy nhiên, phác đồ điều trị 14 ngày của primaquine thường có sự tuân thủ thuốc kém.6,7,8 Cam kết của GSK đối với bệnh sốt rét Sốt rét vẫn còn là một trong những thách thức y tế toàn cầu lớn nhất. Trong khi đã có những tiến bộ to lớn đạt được trong cuộc chiến chống sốt rét, nhưng những tiến bộ này dường như rất mong manh. GSK hỗ trợ cho WHO nhắm đến mục tiêu giảm số ca bệnh và tử vong 90% tính đến năm 2030 và tin rằng với làn sóng cam kết toàn cầu từ các tổ chức chung tay, mục tiêu này có thể được thực hiện. GSK hiện đang thực hiện những cam kết của mình bằng cách tận dụng kinh nghiệm 40 năm của mình làm việc với các đối tác để đấu tranh chống lại sốt rét trong phòng thí nghiệm và ngoài thực địa. Thông tin an toàn quan trọng CHỐNG CHỈ ĐỊNH Tafenoquine không được sử dụng đối với các đối tượng: • Thiếu men G6PD • Phụ nữ mang thai • Phụ nữ cho con bú và trẻ sơ sinh thiếu men G6PD hoặc không rõ tình trạng men G6PD của đứa trẻ • Những bệnh nhân có tiền sử mẫn cảm vớicác loại thuốc 8-aminoquinolines khác, hoặc bất kỳ thành phần nào của thuốc CẢNH BÁO VÀ CẨN TRỌNG KHI DÙNG THUỐC Thiếu máu tán huyết và thiếu men G6PD Do có nguy cơ thiếu máu tán huyết ở những bệnh nhân thiếu men G6PD, phải tiến hành xét nghiệm men G6PD trước khi kê đơn tafenoquine. Từ chối kê tafenoquine cho những bệnh nhân có mức độ men G6PD <70% mức bình thường. Theo dõi các bệnh nhân về các dấu hiệu lâm sàng hoặc các triệu chứng thiếu máu tán huyết. Khuyến cáo bệnh nhân tìm kiếm sự trợ giúp y tế nếu có các dấu hiệu thiếu máu tán huyết xảy ra. Tăng methemoglobin huyết (Methaemoglobinaemia) Đã có những nghiên cứu lâm sàng ghi nhận hiện tượng tăng vọt methaemoglobin không triệu chứng (xem phần 4.8 Tác dụng bất lợi). Nếu có các dấu hiệu hoặc triệu chứng tăng methemoglobin huyết xảy ra, nên áp dụng liệu pháp điều chỉnh phù hợp. Nên thận trọng đối với các bệnh nhân thiếu men methemoglobin reductase phụ thuộc NADH (nicotinamide adenine dinucleotide) Các tác dụng tâm thần Các phản ứng bất lợi đối với tâm thần tự hạn chế, nhẹ đến vừa (vd lo lắng, mơ mộng bất thường) đã được báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng của tafenoquine. Trong khi không có báo cáo về các phản ứng biến cố tâm thần nghiêm trọng trong các thử nghiệm lâm sàng với liều đơn 300mg, các ca trầm cảm và rối loạn tâm thần cũng đã xảy ra ở các liều đơn cao hơn (350 đến 600mg) của tafenoquine, phần lớn ở các đối tượng có tiền sử rối loạn tâm thần. Các rối loạn tâm thần nghiêm trọng nhưtrầm cảm và rối loạn tâm thần đã được chứng minh có liên quan đến một số loại thuốc chống sốt rét quinoline. Nên thận trọng khi kê đơn tafenoquine cho các bệnh nhân hiện đang có hoặc đã từng có các rối loạn tâm thần nghiêm trọng. Nên đánh giá cả khía cạnh rủi ro-lợi ích cho từng bệnh nhân. Do tafenoquine có thời gian bán huỷ (half-life) dài (15 ngày), các tác dụng tâm thần và phản ứng mẫn cảm có thể trì hoãn khởi phát và/hoặc diễn ra trong thời gian kéo dài. TƯƠNG TÁC VỚI CÁC LOẠI THUỐC KHÁC VÀ CÁC HÌNH THỨC TƯƠNG TÁC Tafenoquine là một chất ức chế chất vận chuyển cation hữu cơ 2 (OCT2) ở người và chất vận chuyển MATE (multidrug and toxin extrusion transporter) trong ống nghiệm, có tiềm năng gây ra sự phơi nhiễm tăng cường đối với các chất nền của chúng (vd. Dofetilide). Có nguy cơ nhỏ dẫn đến nhiễm axit lactic do gia tăng sự phơi nhiễm metformingây ra bởi sự ngăn chặn các chất vận chuyển này. Do đó, sử dụng thận trọng đối với metformin. Các loại thuốc có cửa sổ điều trị (therapeutic index) hẹp là các chất nền của các chất vận chuyển thận OCT2 và MATE không nên được dùng kèm. (vd. phenformin, buformin, dofetilide, procainamide, và pilsicainide). CÁC PHẢN ỨNG CÓ HẠI (CÁC TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN) Các phản ứng có hại thông thường (xảy ra ở >1% số bệnh nhân được điều trị tafenoquine) bao gồm tăng creatinine máu, chóng mặt, methaemoglobin cao, giảm sắc tố haemoglobin, đau đầu, mất ngủ, buồn nôn, và nôn. Báo cáo các phản ứng có hại nghi ngờ sau khi đăng ký sản phẩm y tế là điều rất quan trọng. Nó giúp tiếp tục theo dõi sự cân bằng lợi ích-rủi ro của sản phẩm y tế. Các chuyên gia y tế được yêu cầu báo cáo bất kỳ phản ứng có hại nghi ngờ nào tại https://www.tga.gov.au/reporting-problems. Các nhãn hiệu được sở hữu hoặc cấp phép bởi GSK và các công ty con. GSK – một công ty chăm sóc y tế toàn cầu nhờ các thành tựu khoa học có một mục đích đặc biệt: giúp mọi người làm được nhiều hơn, cảm thấy khoẻ hơn, sống lâu hơn. Xin vui lòng truy cập www.gsk.com để biết thêm thông tin. Medicines for Malaria Venture MMV – là một tổ chức cộng tác phát triển sản phẩm hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển thuốc chống sốt rét. Nhiệm vụ của tổ chức này là giảm thiểu gánh nặng của bệnh sốt rét tại các quốc gia bệnh lưu hành bằng cách khám phá, phát triển và tạo điều kiện cho việc đem lại các loại thuốc sốt rét mới, hiệu quả và giá cả phải chăng. Từ khi thành lập vào năm 1999, MMV và các đối tác đã xây dựng danh mục về các Nghiên cứu và Phát triển các loại thuốc sốt rét và các dự án tiếp cận lớn nhất, và mang đến bảy loại thuốc đã giúp cứu mạng con người. Thành công của MMV dựa trên mạng lưới cộng tác rộng khắp với khoảng 160 đối tác hãng dược, tổ chức giáo dục và các nước bệnh lưu hành ở hơn 55 quốc gia. Tầm nhìn của MMV là một thế giới trong đó các loại thuốc tân tiến sẽ chữa khỏi và bảo vệ các nhóm dân yếu thế và thiếu các dịch vụ sức khỏe cá nhân có nguy cơ mắc sốt rét, đồng thời giúp tiêu diệt căn bệnh kinh khủng này.
Tài liệu tham khảo 1. World Health Organization. World Malaria Report 2017 (2017): http://www.who.int/malaria/publications/world-malaria-report-2017/report/en/ 2. Knope KE et al. Arboral diseases and malaria in Australia, 2012-2013: annual report of the national arbovirus and malaria advisory committee. Commun Dis Intell Q Rep 2016; 40(1): E17-E47 3. Price RN et al. Vivax malaria: neglected and not benign. Am J Trop Med Hyg 2007; 77:79–87. 4. Lima Jr JC, Pratt -Riccio LR. Major Histocompatibility Complex and Malaria: Focus on Plasmodium vivax Infection. Frontiers in Immunology 2016; 7(13): 1 -14 5. Wells TNC et al. Targeting the hypnozoite reservoir of Plasmodium vivax: the hidden obstacle to malaria elimination. Trends Parasitol 2010; 26:145-151. 6. Takeuchi R et al. Directly-observed therapy (DOT) for the radical 14-day primaquine treatment of malarial on the Thai-Myanmar border. Malar J 2010;9:308 7. Abreha A et al. Comparison of artemether-lumefantrine and chloroquine with and without primaquine for the treatment of Plasmodium vivax infection in Ethiopia: A randomized controlled trial. PLoS Med 2017;14:e1002299. 8. Douglas NM et al. Unsupervised primaquine for the treatment of Plasmodium vivax malaria relapses in southern Papua: a hospital-based cohort study. PLOS Med 2017;14: e1002379.
|