Thông tin cập nhật về trị liệu sốt rét và thuốc chống sốt rét mới trong năm 2014
Điều trị ung thư đại tràng bằng thuốc sốt rétCác nhà khoa Anh tại ĐH London đã phát hiện tác dụng điều trị ung thư kết trực tràng của một loại thuốc chữa sốt rét artesunate thông dụng, xem đó là triển vọng mới nhằm bổ sung hoặc thay thế liệu pháp hóa trị tốn kém và gây nhiều tác dụng phụ. Trong nghiên cứu được công bố trên tạp chí EBioMedicin, các nhà khoa học đã thử nghiệm trên 42 bệnh nhân ung thư kết trực tràng, trong đó có 10 người dùng artesunate và 12 người dùng giả dược để đối chiếu trước khi họ được phẫu thuật lấy khối u. Liều artesunate là 200 mg, được uống trong 14 ngày và ngưng 2 hoặc 3 ngày trước khi phẫu thuật.42 tháng sau phẫu thuật, chỉ có 1 ca trong nhóm dùng artesunate bị tái phát, trong khi ở nhóm dùng giả dược có đến 6 ca ung thư tái phát. Trưởng nhóm nghiên cứu, GS Devinder Kumar, ghi nhận: “Tỉ lệ bệnh nhân sống sau 2 năm ở nhóm dùng artesunate là 91%, trong khi tỉ lệ này ở nhóm dùng giả dược chỉ là 57%”. Các nhà khoa học kêu gọi có thêm thử nghiệm lâm sàng quy mô rộng hơn để chứng tỏ hiệu quả của artesunate.Ung thư kết trực tràng là dạng ung thư nói chung ở kết tràng và trực tràng vốn được xem là dạng ung thư tương đối khá nhiều trong độ tuổi hơn 50 ở cả nam và nữ. Các nhà khoa học ghi nhận trong điều kiện chữa trị tốt nhất hiện nay, có khoảng 60% bệnh nhân còn sống 5 năm sau khi bị chẩn đoán có bệnh này. Hiện nay, các ký sinh trùng gây bệnh sốt rét đang phát triển khả năng kháng thuốc, vì vậy các nhà nghiên cứu phải thường xuyên tìm kiếm các liệu pháp điều trị mới. Trong quá trình tìm kiếm đó, nhóm các nhà nghiên cứu Scripps và Viện các bệnh nhiệt đới Novartis ở Singapore đã tìm ra một hợp chất có khả năng điều trị bệnh sốt rét ở chuột chỉ bằng một liều thuốc. Nhóm nghiên cứu đã phát triển loại thuốc này bằng cách sàng lọc danh mục 12.000 hợp chất sau đó tạo ra dẫn xuất của những hợp chất có triển vọng nhất. Sau khi thử nghiệm các chất dẫn xuất này, các nhà nghiên cứu đã tập trung vào một hợp chất spiroindolon, được gọi là NITD609. Hợp chất này dự kiến sẽ tác động vào một loại protein của ký sinh trùng sốt rét mà các loại thuốc sốt rét hiện nay không tác động. Theo các nhà nghiên cứu, NITD609 ngăn chặn nhanh quá trình tổng hợp protein trong ký sinh trùng sốt rét bằng cách ngăn chặn gen trong adenosin triphosphataza có chức năng vận chuyển các cation qua màng tế bào. Do tác nhân chống sốt rét này hoạt động theo một cơ chế khác với các thuốc chống sốt rét hiện nay nên nó có hiệu quả chống lại các chủng ký sinh trùng sốt rét đã kháng thuốc. Nếu các nghiên cứu về dược lý và an toàn thành công, các nhà nghiên cứu sẽ bắt đầu thử nghiệm thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1 vào cuối năm nay. Kết quả của nghiên cứu này mở ra hy vọng điều trị bệnh sốt rét – căn bệnh đang gây tử vong cho gần 1 triệu người mỗi năm Thử nghiệm mới phát hiện ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc Các nhà nghiên cứu đã phát triển hai thử nghiệm có thể phân biệt bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng sốt rét kháng hay nhạy cảm với artemisinin trong vòng ba ngày, đây là loại thuốc chính để điều trị sốt rét. Các thử nghiệm đã được các nhà nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu quốc gia các bệnh dị ứng và truyền nhiễm, một phần của Viện Sức khỏe quốc gia, làm việc với các đồng nghiệp Pháp và Campuchia tại Campuchia thực hiện. Họ cung cấp một lợi thế nhanh hơn và ít tốn kém hơn các thử nghiệm đáp ứng thuốc hiện tại, điều này đòi hỏi bệnh nhân mắc sốt rét phải nhập viện để lấy lam máu mỗi 6 giờ trong giai đoạn điều trị. Trong cả 2 thử nghiệm, ký sinh trùng non tiếp xúc với atermisinin liều cao trong thời gian ngắn, giống như cách mà ký sinh trùng tiếp xúc với thuốc trên các bệnh nhân đã được điều trị sốt rét, sự tồn tại của chúng được đếm sau 72 giờ. Thử nghiệm đầu tiên được tiến hành lấy máu trên bệnh nhân sốt rét cùng thời điểm với việc quản lý điều trị thuốc kết hợp với artemisinin trong liều đầu tiên. Thử nghiệm được trả kết quả trong vòng 72 giờ và có thể dự đoán chính xác bệnh nhân mắc sốt rét hay ký sinh trùng kháng thuốc. Các nhà nghiên cứu lưu ý rằng xét nghiệm mới có thể dùng trong nghiên cứu giám sát để quản lý và thiết lập bản đồ về sự xuất hiện hoặc lây lan của ký sinh trùng sốt rét kháng artemisinin. Trong những nghiên cứu hiện tại, các nhà nghiên cứu đang sử dụng thử nghiệm này phát hiện ký sinh trùng kháng artemisinin ở thực địa của Bắc và Tây Campuchia trong lần đầu tiên. Thử nghiệm thứ hai được tiến hành trên ký sinh trùng nuôi cấy, thử nghiệm này yêu cầu kỹ thuật viên được đào tạo để đáp ứng được việc nuôi cấy ký sinh trùng thu thập trên bệnh nhân sốt rét trong phòng thí nghiệm, thể phân liệt giai đoạn sống của ký sinh trùng, và sau đó ứng dụng thuốc vào giai đoạn ký sinh trùng ba giờ hoặc sớm hơn. Thử nghiệm này hầu hết sẽ ứng dụng nhiều nhất trong các nghiên cứu tiếp theo để làm rõ bằng kỹ thuật sinh học phân tử của kháng artemisinin và thử nghiệm các thuốc sốt rét mới. Kháng sinh mới có triển vọng chống bệnh sốt rét Nghiên cứu được thực hiện bởi các nhà khoa học thuộc Trường ĐH Y Vienna (Áo), Viện Nghiên cứu Sáng kiến Sốt rét Bandarban (Bangladesh) và Trung tâm Nghiên cứu Bệnh tiêu chảy Quốc tế tại Dhaka (Bangladesh). Plasmodium falciparum kháng thuốc đang ngày càng gia tăng đã dẫn tới việc nghiên cứu các liệu pháp chống sốt rét mới. Tigecyclin thuộc nhóm thuốc kháng sinh mới có tên là glycylcyclin, có tác dụng chống vi khuẩn và được thiết kế đặc biệt để khắc phục 2 cơ chế kháng tetracyclin. Các nghiên cứu lâm sàng về tigecyclin cho thấy thuốc dễ sử dụng và dung nạp tốt với phác đồ 2 lần/ngày. Trong nghiên cứu, các mẫu máu được lấy từ bệnh nhân nam và nữ bị nhiễm P. falciparum ở Bangladesh. Loại khỏi nghiên cứu những phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú và những bệnh nhân đã dùng liệu pháp thuốc điều trị sốt rét tới 30 ngày trước đó. Khi thử nghiệm với 66 mẫu phân lập, tigecyclin là thuốc có hoạt tính cao nhất chống P. falciparum trong tất cả các kháng sinh. Hơn nữa, tigecyclin có hoạt tính chống P. falciparum cao gấp 6 lần so với doxycyclin; tuy nhiên, khi thử nghiệm kết hợp với doxycyclin, thấy có mối tương quan hoạt tính rõ rệt. Cuối cùng, thử nghiệm thêm về tigecyclin đã xác nhận các nghiên cứu trước đây cho thấy tigecyclin gây ra đáp ứng chết muộn và có thời gian bán thải khá dài khiến thuốc dễ sử dụng hơn tetracyclin và doxycyclin. Nhóm nghiên cứu kết luận: “tigecyclin có hoạt tính chống sốt rét rõ rệt và có thể là thuốc dự tuyển tiềm năng để nghiên cứu hiệu quả lâm sàng khi kết hợp với các thuốc chống sốt rét tác dụng nhanh trong điều trị P. falciparum kháng đa thuốc ở những bệnh nhân bị bệnh nặng”. Nghiên cứu đánh giá tác dụng artelinat và metaartelinat trên KSTSR thực nghiệm Artemisinin (ART) và dẫn xuất artesunat (AS) là những thuốc sốt rét mới, được chiết xuất từ cây thanh hao (Artemisia an nua L.), đượcTrung Quốc, Thái Lan, Myanmar... sử dụng để điều trị sốt rét. Tại nước ta ART và AS đã được nghiên cứu, ứng dụng từ đầu những nǎm 1990 và đến nay nhu cầu sử dụng ngày càng tǎng Mỗi nǎm Chương trình phòng chống sốt rét đã sử dụng tới hàng triệu viên thuốc. ART và AS có ưu điểm là cắt sốt và cắt ký sinh trùng (KST) nhanh, mạnh hơn so với các thuốc sốt rét khác nhưng có nhược điểm là thời gian bán huỷ ngắn, tỷ lệ tái phát còn cao:
- Trên chuột nhiễm KSTPlasmodium berghei (P. berghel), ART có hiệu lực điều trị trên chủng KST nhạy cloroquin; trên chủng kháng cloroquin ART và AS chỉ có tác dụng ức chế vì tỷ lệ tái phát khi dùng liều 150mg/kg ngày lên đến 100%; - Trong thử nghiệm ART và AS trên lâm sàng (dùng đơn thuần hoặc phối hợp với một thuốc sốt rét khác) thuốc có hiệu lực tốt, cắt KST nhanh nhưng tỷ lệ tái phát còn cao (12- 47%). Gần đây một số nhà khoa học đã tập trung nghiên cữu các dẫn xuất của ART để hạn chế nhược điểm của nhóm thuốc này như: artemether, arteether, dihydroartemisinin hay artemisinin chứa flo. Phan Đình Châu và cộng sự đǎ nghiên cứu bán tổng hợp được artelinat và metaartelinat từ artemisinin. Chúng tôi nghiên cứu đánh giá tác dụng của các thuốc mới này trên mô hình sốt rét thực nghiệm với mục đích là: (i) Đánh giá tác dụng trên chuột nhắt trắng nhiễm KST P. berghei nhạy và kháng cloroqui và (ii) Thǎm dò đánh giá tác dụng trên KST P.falciparum nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. - Đối với chủng KST nhạy cloroquin: + Nồng độ ức chế 50% (IC 50) KST phát triển của artelinat là 10,70nmol/1ít đối với chủng P. falciparum nhạy cloroquin. Nồng độ ức chế 50% (IC 50) KST phát triển của artelinat là 10,70nmol/1ít đối với chủng nhạy cloroquin. + Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của thuốc đối với chủng KST P. falciparum nhạy cloroquin là 3.10-8 mol/1ít. - Đối với chủng KST kháng cloroquin: + Nồng độ ức chế 50% KST P. falciparum phát triển của artelinat là 12,48 nmol/1ít. + Nồng độ ức chế tối thiểu là 3.10-8mol/1ít. Nồng độ ức chế tối thiểu là 3.10mol/1ít.
Từ các kết quả trên, ta có thể đánh giá artelinat có tác dụng đối với cả chủng KST nhạy và chủng KST kháng thuốc cloroquin. Đánh giá tác dụng sinh học của thuốc chống sốt rét mới artelinat và metaartelinat trên mô hình động vật thực nghiệm chuột nhiễm P.berghei và P. falciparum ở labo là bước thử nghiệm quan trọng để xác định hiệu lực của thuốc. Mô hình thử nghiệm này đã được WHO qui định và đưa ra tiêu chuẩn để đánh giá và đã được các Viện Sốt rét KST-CT ứng dụng thành công hơn 20 nǎm nay. Kết quả thử nghiệm artelinat và metaartelinat trên chuột nhắt trắng nhiễm P. berghei nhạy cloroquin cho thấy: cả hai thuốc sử dụng phác đồ này đều có tác dụng tốt, làm sạch KST nhanh, 100% sổ chuột thực nghiệm KST là âm tính. Trong khi đó ở lô chứng KST phát triển từ thấp đến cao và vật chủ chết từ ngày thứ 6 đến ngày thứ 14. Kết quả này chứng tỏ artelinat và metaartelinat có tác dụng trên chủng P. berghei nhạy cloroquin. So với ART và AS thì artelinat và metaartelinat có tác dụng tốt hơn ART. Kết quả thử nghiệm trên chuột nhắt trắng nhiễm P.berghei kháng cloroquin cho thấy: metaartelinat chỉ có tác dụng ức chế KST trong những ngày điều trị. Còn artelinat có tác dụng tốt đối với chủng KST kháng thuốc: Sau 28 ngày KST vẫn âm tính, chuột sống khoẻ mạnh và phát triển bình thường. Chúng tôi tập trung nghiên cứu thǎm dò tác dụng của nó với P. falciparum chủng nhạy và chủng kháng. Kết quả cho thấy artelinat có tác dụng với P. falciparum cả chủng nhạy và chủng kháng cloroquin với nồng độ rất nhạy MLC- 3.10-8 mol/lít. Đây là kết quả rất đáng mừng và hy vọng có thể tiếp tục nghiên cứu nó để làm thuốc sử dụng với chủng KST kháng thuốc.
Kết luận: (i) Metaarlinat và artelinat có tác dụng trên KST P. berghei chủng nhạy cloroquin với liều 100mg/kg/5 ngày. (ii) Artelinat có tác dụng trên chủng KST P.berghei kháng cloroquin tốt hơn metaartelinat, sau 28 ngày KST vẫn âm tính. (iii) Trên KST P. falciparum nuôi cấy artelinat có tác dụng cả trên chủng nhạy và chủng kháng cloroquin với nồng độ rất nhạy: MIC: 3.10-8 mol/1ít. Cần tiếp tục nghiên cứu tác dụng dược lý và độc tính để có thể ứng dụng thuốc artelinat làm thuốc điều trị KSTsốt rét kháng thuốc.Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của thuốc đối với chủng KST Vaccine mới có hiệu quả phòng sốt rét 100%Các nhà khoa học Mỹ đã tuyên bố đạt được một bước tiến đột phá trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt rét, sau khi một loại vắc-xin mới được thử nghiệm cho thấy hiệu quả chống bệnh sốt rét lên tới 100%. Các nhà khoa học thuộc Viện nghiên cứu sức khỏe quốc gia, Hải quân và các tổ chức khác ở Mỹ, đã tiến hành thử nghiệm loại vaccine phòng sốt rét mới có tên tên là PfSPZ trên 57 người tình nguyện. Vắc-xin được tạo từ các ký sinh trùng Plasmodium falciparum gây bệnh sốt rét, nhưng đã được làm suy yếu không còn khả năng gây bệnh. Trong tổng số 57 người tham gia cuộc thử nghiệm, 40 người được tiêm vaccine PfSPZ với những liều lượng khác nhau. Tất cả những người này sau đó được cho đốt bởi những con muỗi mang ký sinh trùng gây bệnh sốt rét. Sáu đó 1 tuần, các nhà kiểm tra họ có phát triển bệnh sốt rét hay không. Kết quả, 6 người được tiêm 5 liều vắc-xin PfSPZ miễn dịch hoàn toàn với bệnh sốt rét khi không trường hợp nào phát bệnh sau khi bị muỗi mang ký sinh trùng gây bệnh sốt rét đốt. Những trường hợp khác cũng cho thấy kết quả khả quan, nhưng chưa đạt hiệu quả 100%. Trong số 9 người được tiêm 4 liều vắc-xin, thì 3 người bị nhiễm bệnh. Trong số 12 người không được tiêm vắc-xin PfSPZ, 11 người được kiểm tra dương tính với bệnh sốt rét. Không trường hợp nào tham gia cuộc thử nghiệm bị phản ứng phụ sau từ loại vắc-xin mới này. Những người bị bệnh sốt rét sau đó đã được điều trị bằng một loại thuốc chống sốt rét. Mặc dù các kết quả của cuộc thử nghiệm rất khả quan, nhưng cần tiến hành thử nghiệm trên quy mô rộng hơn. Nếu thử nghiệm trên quy mô lớn thành công, vắc-xin PfSPZ vẫn cần thêm vài năm nữa trước khi được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng. Tiến sĩ William Schaffner, người đứng đầu nghiên cứu, cho biết đây là “một tiến bộ khoa học”, nhưng có thế thể phải mất 10 năm trước khi loại vắc-xin này được chứng mình bằng khoa học, cấp phép và phân phối. Vaccine PfSPZ được phát triển bởi công ty Sanaria ở Maryland của Mỹ và được thử nghiệm bởi Viện nghiên cứu sức khỏe quốc gia, Viện nghiên cứu quân đội Walter Reed cùng Trung tâm nghiên cứu y tế Hải quân. Đột phá mới trong việc điều trị căn bệnh sốt rét Các nhà nghiên cứu Canada thuộc Hội đồng nghiên cứu quốc gia tại Saskatoon đã tìm ra cách sản xuất công nghiệp chất artemisinin, thành phần chính của các loại thuốc chữa sốt rét hiệu quả nhất hiện nay. Artemisinin là một loại hóa chất được chiết xuất từ cây ngải tây, được trồng tại một số nơi ở châu Á và châu Phi. Tuy nhiên, việc trồng và thu hoạch loại cây này, rồi chiết xuất artemisinin mất rất nhiều thời gian và công lao động. Hơn nữa, việc cung cấp loại hợp chất thiên nhiên này cũng phụ thuộc vào thời tiết và điều kiện gieo trồng. Ông Patrick Covello, tác giả của nghiên cứu trên cho biết, họ đã xác định bốn loại gen sản xuất ra loại protein dẫn tới chất artemisinin. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu thuộc trường Đại học California (Mỹ) đã phát hiện ra "tiền thân" của artemisinin bằng cách đưa hóa chất này vào men. Sau khi hai loại gen do các nhà nghiên cứu Canada tìm ra được đưa vào hỗn hợp men trên, họ đã sản xuất được chất artemisinin bán nhân tạo. Phát hiện mới này có thể giúp cung cấp cho các nước đang phát triển những loại thuốc chống sốt rét với mức giá thấp và nguồn cung cấp ổn định do tiến trình lên men này ngắn và đáng tin cậy hơn việc trồng cây ngải tây. Công ty dược phẩm Sanofi-aventis tuyên bố đang chuẩn bị sản xuất loại thuốc chống sốt rét, sử dụng loại gen đã được phát hiện tại Saskatoon, với quy mô thương mại từ năm 2012. Chính phủ Canada đã chi 869.000 CAD cho nghiên cứu trên theo cam kết cải thiện sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em tại các nước đang phát triển. Kết quả nghiên cứu được xem là bước đột phá trong việc điều trị bệnh sốt rét, cũng như trong cuộc chiến chống lại bệnh dịch này trên toàn cầu. Thái Lan phát triển loại thuốc chống sốt rét mới Cơ quan phát triển khoa học và công nghệ quốc gia Thái Lan cho biết đang phát triển một loại thuốc mới tên là P218 có khả năng chống sốt rét. Dự kiến loại thuốc này sẽ được đưa vào thử nghiệm tiền lâm sàng trước khi sản xuất đại trà. Các nhà nghiên cứu Thái Lan đã phát hiện ra một loại protein khiến ADN của kí sinh trùng sốt rét phát triển. Bằng cách ngăn chặn sự phát triển của protein này, thuốc P218 sẽ ngăn không cho ADN của ký sinh trùng sốt rét sao chép, từ đó tiêu diệt hoàn toàn kí sinh trùng sốt rét. Loại thuốc mới này có thể thay thế pyrimethamin, thuốc chống sốt rét thông dụng nhất hiện nay. Dự kiến quá trình thử nghiệm thuốc P218 sẽ kéo dài trong vòng 5 năm, tuy nhiên các nhà khoa học Thái Lan tỏ ra khá lạc quan bởi trong quá trình thử nghiệm trước đó đã không phát hiện ra độc tính của loại thuốc này. Dược phẩm ứng viên cho điều trị sốt rét Sốt rét là một bệnh truyền nhiễm do ký sinh trùng (KST) thuộc loại động vật nguyên sinh (protozoa) gây nên. KST sốt rét thuộc chi Plasmodium. Năm loài của Plasmodium có khả năng nhiễm và gây bệnh cho người bao gồm Plasmodium falciparum, Plasmodium vivax, Plasmodium ovale, Plasmodium malariae và Plasmodium knowlesi. Trong đó Plasmodium falciparum, Plasmodium vivax là hai loài gây bệnh nặng, phổ biến cho người; Plasmodium ovale và Plasmodium malariae gây bệnh với các triệu chứng nhẹ và ít gây tử vong trong khi loài thứ 5, Plasmodium knowlesi, có thể nhiễm và gây bệnh cho cả người và khỉ nên được coi là một nguyên nhân gây bệnh truyền lây giữa người và động vật. Khi muỗi Anopheles cái đốt người nhiễm KST sốt rét sẽ lấy đi một lượng máu nhỏ trong đó có chứa ký sinh trùng. Những KST này sẽ phát triển trong cơ thể muỗi. Khoảng 1 tuần sau, nếu muỗi tiếp tục đốt người khác, các KST sốt rét sẽ xâm nhập được vào "nạn nhân tiếp theo". Sau khoảng 2 tuần đến vài tháng cư trú trong gan, KST bắt đầu xâm nhập vào các hồng cầu và "sinh sản" trong hồng cầu gây nên các triệu chứng như sốt, đau đầu. Trường hợp nặng, KST gây ảo giác và tử vong. Nhiều loại thuốc chống sốt rét đã được sử dụng. Trong 5 năm gần đây, ở các quốc gia bệnh còn lưu hành, trong liệu trình điều trị, các đơn thuốc dùng kết hợp những dẫn chất của artemisinin được sử dụng rộng rãi để điều trị sốt rét do Plasmodium falciparum. Những trường hợp nặng, bệnh nhân được điêu trị bằng cách tiêm quinine trong cơ hay tính mạch hoặc đưa trực tiếp artesunate vào tĩnh mạch. Hiện tượng kháng thuốc của KST sốt rét, đặc biệt là kháng chloroquine đã hình thành. Chính vì vậy việc nghiên cứu các loại thuốc mới chống KST sốt rét có ý nghĩa rất lớn, đặc biệt với những quốc gia vùng nhiệt đới. Các nhà khoa học Thụy sĩ, Hoa kỳ, Thái Lan vừa công bố kết quả phát hiện và thử nghiệm khả năng chống KST sốt rét P. falciparum và P. vivax. Chất có khả năng này mang tên Spirotetrahydro-β-carbolines (hay spiroindolones) có thể tiêu diệt KST ở giai đoạn chúng phát triển và sinh sản trong máu ở liều tác dụng rất nhỏ (được tính bằng na-nô-môl). Nghiên cứu cơ chế tác dụng cho thấy thuốc có khả năng ức chế quá trình tổng hợp protein của KST. Thí nghiệm được tiến hành trên Plasmodium falciparum mang thể đột biến của P-type ATPase (các bơm ion hay các protein xuyên màng có vai trò quan trọng trong vận chuyển ion qua màng Xác định một loại enzyme mới của ký sinh trùng sốt rét Các nhà khoa học ngày 27/11 công bố trên tạp chí Tự nhiên rằng họ đã xác định được một loại enzyme mới của ký sinh trùng gây bệnh sốt rét, giúp tìm ra phương pháp điều trị hiệu quả hơn đối với căn bệnh nguy hiểm này. Loại enzyme mà nhóm nghiên cứu vừa phát hiện được mang tên Phosphatidylinositol-4-kinase hoặc PI4K. Đây là enzyme mà ký sinh trùng sốt rét Plasmodium spp. cần để duy trì sự sống trong tế bào vật chủ. PI4K được ký sinh trùng sử dụng để chuyển hóa năng lượng trong mọi giai đoạn của quá trình truyền nhiễm trên cơ thể con người. Việc phát hiện PI4K giúp bác sỹ có thể sử dụng các loại thuốc tiềm năng để tấn công enzyme mới này, từ đó có thể tiêu diệt ký sinh trùng gây bệnh. Giới y khoa đánh giá đây là một phát hiện quan trọng, vì thường khó có thể phát hiện được các điểm yếu của ký sinh trùng để có biện pháp ngăn chặn tất cả các giai đoạn phức tạp trong quá trình Plasmodium spp. phát triển và nhân lên trong cơ thể người bệnh. Ông Case McNamara, một chuyên gia di truyền học thuộc Tổ chức Nghiên cứu Novartis ở San Diego, California, cho biết hầu hết các loại thuốc điều trị sốt rét chỉ có khả năng tác động tới những giai đoạn nhất định trong chu kỳ sống của ký sinh trùng, mà không phải là cả quá trình. Điều đáng lưu ý là các loại thuốc tiềm năng không thể quét sạch các dạng ban đầu của ký sinh trùng mang tên Hypnozoites, nên chúng vẫn hoạt động trong gan, sau đó hồi sinh gây tái phát sốt rét ở người bệnh. Dùng thuốc tác động trực tiếp vào PI4K không chỉ giúp chữa bệnh nhiễm trùng sốt rét mà còn có khả năng ngăn ngừa nhiễm trùng, thậm chí ngăn chặn sự lây truyền của ký sinh trùng trở lại muỗi. Do vậy, đây là nhân tố điều trị mới được đánh giá hiệu quả hơn việc sử dụng thuốc Primaquine trong việc khống chế hypnozoites. Dù được cấp phép sử dụng từ hơn nửa thế kỷ qua, nhưng các nhà nghiên cứu cho biết Primaquine vẫn chỉ được coi là giải pháp cuối cùng vì nó có thể gây thiếu máu và đe dọa tính mạng ở những người bệnh vốn có đột biến gene di truyền. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), trong năm 2010, có khoảng 219 triệu ca sốt rét trên thế giới, khiến khoảng 660.000 người tử vong, đa phần là trẻ em dưới 5 tuổi ở khu vực cận Sahara ở châu Phi. Hiện căn bệnh này vẫn là một trong những nguyên nhân gây tử vong và bệnh tật chính ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương với khoảng 36 triệu ca nhiễm bệnh và 49.000 trường hợp tử vong hàng năm.
|