Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 22/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 1 7 3 5 9 0
Số người đang truy cập
4 8 1
 Chuyên đề Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Tương tác giữa sốt rét và HIV/AIDS: Gánh nặng và diễn tiến bệnh tật sẽ gia tăng? (Phần 1)

Con người đã biết đến sốt rét từ nhiều thế kỷ nay và đại dịch AIDS cũng diễn ra được gần 6 thập niên, sốt rét đã giết chết hàng triệu người và vẫn tiếp tục làm tử vong gần 3 triệu người mỗi năm. Năm 1999, gần 36 triệu người trên khắp thế giới nhiễm virus HIV và 5 triệu ca tử vong vì các bệnh lý có liên quan đến AIDS.

Trong thiên niên kỷ đến cả hai căn bệnh này đều được xem là nhiễm nhiều người hơn và giết chết nhiều hơn trên khắp toàn cầu nhưng bi kịch lớn hơn là nhiễm HIV còn gia tăng đáng kể quan trọng tại các quốc gia mà vốn dĩ có sốt rét lưu hành như một vấn đề không thể kiểm soát được.
 

Nhiều nghiên cứu lý thú đã tiến hành nhằm làm rõ mối liên quan giữa hai căn bệnh tiềm năng gây chết người này. Nhân một ca bệnh tử vong do sốt rét có đồng nhiễm với HIV trên một thanh niên. Tại Việt Nam, qua số liệu công bố chưa đầy đủ cũng như qua thực tế các đợt công tác đánh giá chất lượng chẩn đoán và điều trị tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên phải nói răng hiếm khi gặp với những ca đồng nhiễm HIV và sốt rét đồng thời. Nhân đây chúng tôi chia sẻ một ca bệnh đồng nhiễm virus HIV và sốt rét do P. falciparum đã tử vong và tổng hợp y văn.
 

1. Đặc điểm chung bệnh nhân

       -Họ và tên bệnh nhân: trong bệnh án của BVĐK tỉnh là Vũ Văn C., nam giới, sinh năm 1972;

      -Đia chỉ cư trú: tại thôn 2, xã Ia K’rai, huyện Ia G’rai, tỉnh Gia Lai;

     -Dân tộc: Kinh (theo khai báo là từ một tỉnh phía bắc di cư vào làm ăn ở đây);

     -Nghề nghiệp: Công nhân làm kinh doanh liên quan đến cao su thuộc một xã ở Kon Tum, đặc biệt không thuộc địa bàn xã Ia Krái, Ia Grai;

     -Tiền sử bệnh nhân có nghiện rượu và có thân nhân không rõ ràng (+/-);

     -Bệnh sử: theo lời khai người đi cùng bệnh nhân rằng bệnh nhân có bệnh sử là bệnh khởi phát 3 ngày với triệu chứng sốt cao, rét run, vả mồ hôi, kèm theo đau đầu có đi mua thuốc ở y tế tư nhân uống nhưng không rõ loại, đến ngày thứ 4 bệnh nhân lên cơn rối loạn ý thức, hôn mê nên người nhà đưa vào trạm y tế xã Ia Krái, huyện Ia G’rai có kết quả xét nghiệm que thử sốt rét nhanh SD-Bioline pLDH/HRP2 (+) (do tiện đường di chuyển), nhận định tình trạng bệnh nhân diễn tiến nặng, hôn mê, khó thở, cho thở oxy và chuyển lên tuyến trên bằng xe tư nhân không có phương tiện cấp cứu trên xe, lúc 15h ngày 07.12.2014 đến BVĐK tỉnh Gia Lai lúc 15h45 phút cùng ngày.
 

    -Tiếp nhận tại khoa cấp cứu ban đầu của BVĐK tỉnh:

      +Bệnh nhân nhập tại phòng Hồi sức cấp cứu ban đầu lúc 15h45 phút ngày 07.12.2014 với tình trạng hôn mê;

    +Khám lâm sàng tổng thể cho biết da khô, kết mạc mắt khô, mạch 130 lần/phút, thân nhiệt 40.5oC, huyết áp 110/70mmHg, nhịp thở 24 lần/phút, cân nặng 64 kg. Về tuần hoàn, nhịp tim T1, T2 đều, rõ chưa phát hiện bệnh lý. Hô hấp có thở đều, phổi rale ứ đọng 2 bên, hệ tiêu hóa với bụng mềm, gan lớn4 cm dưới bờ sườn (P). Thần kinh cho thấy Glasgow scale chỉ 4 điểm, cổ cứng (-) không dấu hiệu liệt dây thần kinh khu trú. Các cơ quan khác chưa phát hiện bệnh lý;

    +Khoa Hồi sức cấp cứu chẩn đoán: Hôn mê chưa rõ nguyên nhân;

    +Xử trí thở máy, truyền Nacl 9%o x 500ml (XX giọt/ phút, hạ sốt bằng thuốc bơm qua sonde dạ dày);

    +Đến 16h 45 phút bệnh nhân tiến triển nặng hơn: HA: 100/70mmHg, bệnh nhân được chuyển lên khoa Hồi sức tích cực chống độc lúc 18h20 phút;

   +Xử trí thở oxy 4 lít/phút, truyền dịch NaCl 9%o x 1.000ml, kháng sinh Ceftriazon 1g x 1 lọ tĩnh mạch chậm;

     +Lúc 18h30 phút ngày 07.12.2014 có xét nghiệm: KSTSR: 80.000kst/mm3 (xác định lại bởi Trung tâm Phòng chống Sốt ret-KST-CT tỉnh Gia Lai sau đó là P. ft++++ có kèm theo thể phân liệt); xét nghiệm Dengue NS (-), test nhanh SD Bioline (+), HC: 3,91 M/ul; BC: 6,01 k/ul; N: 67,1%, L: 21,9%; Đường máu: 8,4mmol/l; Ure máu: 13,94 mmol/l (BT: 2.8-7.2mmol/L); Creatinin máu: 134 µmol/l (BT: 4.5-127); SGOT: 644 u/l; SGPT 141 u/l (tỷ lệ De Ritis = SGOT/SGPT = AST/ALT = 4.6 > 2.1), bạch cầu ái toan 1%, bạch cầu ưa base 1%;

    +Các thông số điện giải đồ và khí máu ngày 08.12.2014 gồm:

K+ = 3.5mmol/L (BT: 3.5-5); Na+ = 146 mmol/L (BT: 136-146); Clo- = 107 mmol/L (98-106); pH máu = 7.46; pCO2 = 18 mmHg; PO2 = 74.5, Hct = 39.8%

       +Xét nghiệm miễn dịch khác: test nhanh HIV (+), tiếp đó kết quả này được xác định bởi 3 phản ứng xét nghiệm khác nhau cũng cho kết quả dương tính (ELISA, test nhanh và PCR);

     +Chụp X quang và CT scanner sọ não không có dấu hiệu bất thường

       +ECG trong giới hạn bình thường, không có sóng bất thường;

      +Sau đó được xử trí Artesunate 60mgx 2 lọ tĩnh mạch chậm (lúc 18h30 đến 6h30 phút);

      +Theo dõi tích cực đến 23h00 xử trí thêm Nacl 9%o x 1000ml, Furosemide 2 ống tĩnh mạch chậm (nước tiểu khoảng 20ml);

     +Ngày 08.12.2014, vào lúc 8h00 bệnh nhân vẫn hôn mê, Glasgow scale 6 điểm, mạch 120 l/phút, thân nhiệt 41oC, huyết áp 130/90mmHg; Mật độ KSTSR = 50.000/µL máu. Bil total 158.4 (5-21µmol/L); Bil trực tiếp = 107 (BT: 0-4.3); Bil gián tiếp = 51.4 (0-17); Hct = 35.4%

      +Xử trí thở oxy 3 lít/phút, truyền dịch Nacl 9%o x 1.000ml, kháng sinh Ceftriazon 1g x 1 lọ (tĩnh mạch chậm), Artesunat 60mgx 2 lọ (tĩnh mạch chậm), hạ sốt, thuốc lợi tiểu Furosemide 1 ống (tĩnh mạch chậm) à Đến 8h40 phút bệnh tiến triển xấu, thở nhanh, sâu, nước tiểu màu nước xá xị, Glasgow scale 4 điểm;

      +Đến 15h30 phút bệnh nhân thở kích thích, chống máy à Xử trí đặt catheter lấy CVP, bù dịch, dùng thuốc provanx 10ml, đặt nội khí quản, thuốc diazepam 10mgx 1 ống (tĩnh mạch chậm);

      +Đến 21h15 phút, diễn tiến nặng, bệnh nhân ngừng tim được xử trí tiếp: Thở máy, bóp bóng, ép tim ngoài lồng ngực, Adrenaline, hồi sức tích cực sau 45 phút nhưng bệnh nhân không qua khỏi và tử vong;

     +Chẩn đoán tử vong lúc ra viện: Suy đa phủ tạng/sốt rét ác tính/ HIV/AIDS

     +Sau khi bệnh nhân tử vong, người thân đã chuyển xác về đâu không rõ vì mất cả thông tin và sau đó không hợp tác trong khai thác các yếu tố liên quan khác.

Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn, phối hợp với TT Phòng chống Sốt rét-KST-CT tỉnh Gia Lai xác minh lại trường hợp trên đã kết luận bệnh nhân trên tử vong do sốt rét/HIV/AIDS. Mọt số nguyên nhân khác góp phần như sau khi phát bệnh, bệnh nhân để ở nhà lâu, thời gian đến y tế muộn dù đã được hồi sức cấp cứu tích cực, điều trị đúng phác đồ Bộ Y tế nhưng không qua khỏitử vong sau 34 giờ điều trị.

Một số nhận xét và khuyến cáo sau hồi cứu tử vong

-Trạm y tế xã đã tiếp nhận, khám và xét nghiệm test nhanh SD Bioline (+) với vạch P. falciparum, chẩn đoán đúng (SRAT do P. falciparum). Tuy nhiên, việc khai thác bệnh sử đầy đủ không thể do bệnh nhân rối loạn ý thức, khai thác chỉ thông qua người nhà đi kèm, trước khi chuyển bệnh CBYT chưa xử trí thuốc artesunate tiêm tĩnh mạch trước khi chuyển đi (thuốc artesunate hết hạn sử dụng và phụ trách dược trong trạm đi vắng - nghỉ phép);
 

-Tại BVĐK tỉnh có tổng số ngày điều trị là 2 ngày (từ 15h45 phút ngày 07.12.2014-21h15 ngày 08.12.2014) với chẩn đoán ban đầu chậm và xử trí chậm trên bệnh nhân có sốt và hôn mê nhưng không làm test nhanh cũng không làm lam máu, dù tuyến trước đã có xét nghiệm test nhanh dương tính, mãi đến sau gần 3 giờ đồng hồ sau (15h45 à 18h30) mới có kết quả và điều trị đặc hiệu artesunate lọ đủ liều. Sau khi đã thống nhất chuyển từ chẩn đoán Hôn mê chưa rõ nguyên nhân à Chẩn đoán sốt rét ác tính đa phủ tạng (thể não, suy thận cấp, hội chứng hô hấp, tổn thương gan thận) thì đã muộn, qua thời gian vàng để cấp cứu bệnh nhân SRAT;

-Về phía bệnh nhân khi mắc bệnh đã tự ý mua thuốc dùng ở nhà trong 3 ngày trước đó, không đến cơ sở y tế gần nhất để tiếp cận, đến khi chuyển nặng và rối loạn ý thức, hôn mê mới đi CSYT nên đã phát hiện muộn (nhiễm loài Plasmodium falciparum gây ác tính, mật độ cao kèm theo thể phân liệt trong mô,…), trên cơ địa vốn dĩ trước đó nhiễm virus suy giảm miễn dịch HIV (đang điều trị hay không chưa có thông tin, nhưng xét nghiệm sau đó cũng khẳng định HIV+) và nghiện rượu nặng à Điều này khiến cho bệnh nhân khó tránh khỏi các tác động, ảnh hưởng và biến chứng nghiêm trọng do sốt rét đồng nhiễm HIV, điều này sẽ làm tăng sao chép virus HIV trên bệnh nhân sốt rét và nhiều cơ miễn dịch xảy ra khiến bệnh nhân suy đa phủ tạng nhanh hơn và tử vong sớm hơn. Do đó bệnh nhân chết trong bối cảnh SRAT đa phủ tạng đồng nhiễm với virus HIV;

-Tất cả điều trên à các đơn vị y tế (Sở Y tế, BVĐK tỉnh Gia Lai, Trung tâm Phòng chống Sốt rét-KST-CT Gia Lai, TTYT huyện Ia Grai, các trạm y tế xã) cần có những điểm chỉ đạo tuyến dưới, công tác chẩn đoán, điều trị, cấp thuốc và trạng thiết bị chẩn đoán (lam máu và test nhanh đầy đủ), rà soát lại các thuốc sốt rét cấp cứu tại đơn vị y tế, tập huấn hoặc chỉ đạo tuyến dưới chẩn đoán, phát hiện và điều trị theo phác đồ Hướng dẫn, chẩn đoán và điều trị của Bộ Y tế (2013) đầy đủ.

-TTYT huyện Ia Grai và Trung tâm Phòng chống Sốt rét-KST-CT Gia Lai cần cử các cán bộ chuyên trách giám sát, chỉ đạo trong công tác PCSR đầy đủ, kịp thời và rút kinh nghiệm ca bệnh này cho toàn tỉnh và huyện.

Ảnh hưởng của nhiễm trùng virus HIV lên sốt rét

Với những gì chúng ta biết về nhiễm trùng HIV, thường thì đề cập đến các quốc gia nghèo và chậm phát triển như ở các quốc gia và vùng lãnh thổ châu Phi, gánh nặng của sốt rét và HIV song hành trên cùng bệnh nhân, trên vùng vùng địa lý. Thế nhưng, các báo cáo có sẵn trên y văn cho rằng không có hiệu quả thậm chí không có hiệu quả bảo vệ ngăn ngừa tử vong từ các biến chứng do sốt rét do P. falciparum!
 

  1. Sốt rét không xảy ra như một bệnh cơ hội ở bệnh nhân nhiễm trùng HIV;
  2. Tỷ lệ mắc mới sốt rét không thường hơn ở các bệnh nhân nhiễm HIV;
  3. Đáp ứng điều trị thuốc sốt rét tương tự nhau trên cả bệnh nhân nhiễm HIV và nhóm bệnh nhân không có nhiễm HIV;
  4. Dù nhiễm sốt rét mật độ cao trong máu được phát hiện trên nhiều trẻ em châu Phi có nhiễm HIV có triệu chứng, song các trẻ em này đã cho thấy hiệu quả bảo vệ khỏi sốt rét ác tính thể não và tử vong do SRAT thể não. Điều này được quy kết do nồng độ các chất hay yếu tố hoại tử mô thấp hơn ở trong máu (TNFs_Tumor Necrosis Factor) trên các trẻ em nhiễm virus HIV. TNF được nhiều tác giả báo cáo có hiệu quả tiềm năng trên kết dính tế bào nội mô mạch máu và vón tắc các vi tuần hoàn do các tế bào hồng cầu nhiễm sinh ra. Trên mô hình nghiên cứu ở chuột, AIDS ở chuột tìm thấy chúng có khả năng bảo vệ chông lại mức độ nặng của các triệu chứng thần kinh trên sốt rét thể não thực nghiệm và sự bảo vệ này là cao hơn với thời gian thiếu hụt miễn dịch kéo dài hơn. Interleukin 10 từ các tế bào lách đóng vai trò quan trọng trong cơ chế bảo vệ;
  5. Tuy nhiên, cũng có các nghiên cứu chỉ ra không có sự khác biệt về tỷ lệ mắc mới, đăc điểm lâm sàng và đáp ứng điều trị trong số nhóm bệnh nhân có kết quả HIV (-) và nhóm có HIV (+);
  6. Các bệnh nhân nhiễm virus HIV có thể có kết quả huyết thanh dương tính giả với sốt rét. Do đó, các test huyết thanh sốt rét không có ích như test thay thế chuẩn vàng trong đánh giá tình trạng nhiễm một cách hoàn toàn;
     

Ảnh hưởng của sốt rét trên nhiễm trùng virus HIV ở người

Hình như sốt rét không gây ra tác hại lớn đối với bệnh nhân nhiễm virus và lan truyền virus HIV và ngược lại. Nhiều nghiên cứu từ các quốc gia châu Phi làm sáng tỏ vấn đề này:

  1. Gần đây các kiến thức biết về các vùng mà sốt rét lưu hành thường xuyên, các công nhân khỏe mạnh được chỉ định tiến hành giám sát chủ động bằng cách sàng lọc quần thể đối với sốt rét thông qua xét nghiệm lam máu. Điều này thật đáng sợ và cần phải thận trọng vì khi lấy máu bằng kim chích máu có nguy cơ lây truyền virus HIV rất lớn;
  2. Cũng như thế, trong các vùng lưu hành sốt rét, các trẻ em và phụ nữ mang thai thường thiếu máu liên quan mắc sốt rét và đòi hỏi truyền máu và truyền máu toàn phần hoặc hồng cầu khối. Điều này cũng làm gia tăng nguy cơ lây truyền virus HIV vì nó không đảm bảo chắc chắn trình trạng huyết thanh của người cho máu tại các vùng có virus HIV cực kỳ phát triển. Do đó, điều quan trọng là có xây dựng một hướng dẫn cho an toàn truyền máu ở các vùng mà tình trạng thiếu máu xảy ra (do suy dinh dưỡng, bệnh giun sán và sốt rét,…) và nhiễm trùng HIV lưu hành;
  3. Sốt rét có một tác động tiềm năng liên đới đến suy giảm miễn dịch. Người ta tìm thấy trên các bệnh nhân nhiễm virus HIV mắc sốt rét có xu hướng tình trạng lâm sàng trở nên nghiêm trọng nhanh chóng thành một dạng phức hợp “AIDS realted complex” hay giai đoạn AIDS. Nhiễm trùng sốt rét làm tăng thêm sự sao chép của virus HIV;
  4. Chloroquine, là loại thuốc sốt rét được sử dụng phổ biến nhất cho thấy có hiệu quả ức chế trên hoạt tính của thuốc chống virus của Interferons alpha và beta trên các nghiên cứu động vật. Người ta cũng tìm thấy thuốc chloroquine làm tăng sự sao chép virus trên mô hình chuột. Điều này gợi ý rằng một khả năng liên quan giữa AIDS và sốt rét, vì sư lan rộng của AIDS đã nhanh chóng ở một số nơi ở châu Phi có tỷ lệ nhiễm cao với sốt rét và thuốc chloroquine thường được dùng như một hóa liệu pháp sốt rét.

Sốt rét và Kaposi’s sarcoma

Tại các quốc gia khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi, bệnh Kaposi’s sarcoma là một khối u thường gặp và phổ biến (endemic Kaposi’s) và đã bị quy kết do yếu tố môi trường. Kaposi’s sarcoma cũng xảy ra liên quan đến tình trạng AIDS. Một nghiên cứu sự liên quan đến Kaposi’s sarcoma và lây truyền soosts rét dựa trên các dữ liệu sẵn có từ 27 quốc gia châu Phi tìm thấy một sự liên quan về mặt địa lý có ý nghĩa giữa tỷ lệ Kaposi’s sarcoma và lây truyền sốt rét. Các khả năng sau đây đã đề nghị để giải thích mối liên quan này:

  1. Tác động hay ảnh hưởng ức chế miễn dịch của sốt rét có thể là một đồng yếu tố trong quá trình phát sinh bệnh tại các vùng có Kaposi’s sarcoma lưu hành;
  2. Các bất thường trong việc kết dính tế bào như cơ chế tạo bùn quánh dòng chảy của máu trong sốt rét cũng như trên các ca Kaposi’s sarcoma liên quan đến AIDS. Yếu tố này có thể góp phần vào cơ chế bệnh sinh cả AIDS và Kaposi’s sarcoma lưu hành;
  3. Kaposi’s sarcoma cũng có thể là mọt bệnh lý sinh ra do các động vật chân khớp tại châu Phi.

Tương tác thuốc chống virus HIV và thuốc chống sốt rét

Nhiều nghiên cứu tiến hành đồng thời xác định tương tác giữa các thuốc chống sốt rét và thuốc điều trị HIV/AIDS (thuốc điều tị virus và thuốc điều tị sốt rét) vẫn còn hạn chế và chưa đưa ra số liệu mới nào? Một nghiên cứu tìm thấy không có mối tương tác giữa giữa thuốc mefloquine và indinavir hay nelfinavir. Kết quả nghiên cứu dược động học thuốc mefloquine và ritonavir cho biết mefloquine làm giảm nồng độ thuốc ritonavir trong máu ít nhất 30%.
 

Tác động của sốt rét trên lan truyền HIV/AIDS và diễn tiến bệnh

Một nghiên cứu đa trung tâm do nhóm tác giả Abebe Alemu, Yitayal Shiferaw, Zelalem Addis, Biniam Mathewos và Wubet Birhan thuộc khoa ký sinh trùng y học, đại học khoa họcGondar, Ethiopia đăng tải trên tạp chí Parasites & Vectors 2013, 6:18  doi:10.1186/1756-3305-6-18. Sốt rét và nhiễm HIV là hai trong số các vấn đề y tế toàn cầu của các quốc gia đang phát triển. Chúng gây nên hơn 4 triệu cái chết mỗi năm. Hai bệnh nhiễm trùng này có giá trị tương tác nhau về mặt song phương trực tiếp và cộng hưởng nhau (These two infections interact bidirectionally and synergistically with each other).

Nhiễm HIV làm tăng nguy cơ tăng mức độ nặng của nhiễm trùng sốt rét và gánh nặng sốt rét, điều này làm tăng lan truyền sốt rét. Nhiễm trùng sốt rét cũng liên quan đến tăng hoạt tính tế bào CD4+ và điều hòa “up-regulation” của tiến trình cytokines tiền viêm và nó cung cấp một vi môi trường lý tưởng (ideal microenvironment) để lan rộng virus khi sao chép tế bào CD4+ và rapid HIV-1. Ngoài ra, sốt rét tăng lượng virus trong máu bởi nhiều cơ chế khác nhau. Do đó, nồng độ HIV-1 RNA cao trong máu là một yếu tố tiên đoán diễn tiến bệnh và liên quan đến nguy cơ lan truyền qua đường tình dục, lan truyền dọc. Đây là bài báo nhằm tổng hợp các thông tin về tương tác giữa HIV và sốt rét, tác động hay hiệu ứng của sốt rét lên HIV và tiến trình bệnh cũng như các vấn đề liên quan đến phòng bệnh, điều trị và đồng nhiễm cùng lúc hai bệnh này.
 

Sốt rét và nhiễm HIV là hai trong số vấn đề y tế công cộng quan trọng tại các quốc gia đang phát triển. Sốt rét đôi khi được gọi là vua của các bệnh, gây ra bởi ký sinh trùng đơn bào giống Plasmodium. Nó là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới. 90% số ca tử vong xảy ra tại các quốc gia châu Phi và số còn lại ở châu Mỹ Latinh và châu Á, và bệnh do vector truyền lưu hành nhất thế giới.

Bên cạnh sự gia tăng về tỷ lệ mắc tại các quốc gia đang phát triển, sốt rét và HIV/AIDS có vùng địa lý trùng lắp về phân bố hai bệnh này, trước tiên ở khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi, Đông Nam Á và Nam Mỹ. Trong khi nhiễm trùng một trong hai bệnh sốt rét hoặc HIV/AIDS có thể gây nên bệnh tật và tử vong, thì nhiễm trùng một bệnh có thể cũng làm tình trạng bệnh nặng nền hơn và khó điều trị hơn rồi. Hai bệnh nhiễm trùng này đã là thảm họa nghiêm trọng trên các quần thể đang sống trong vùng sốt rét lưu hành trên khắp thế giới. Các phụ nữ mang thai đặc biệt chịu các hậu quả rất nghiêm trọng khi nhiễm cả sốt rét và HIV/AIDS. Tình trạng nhiễm HIV/AIDScó thể làm tăng thêm các hậu quả không mong đợi cho sốt rét, gồm có thiếu máu, sốt rét qua con đường nhau thai.
 

Bệnh là nguyên nhân thứ 4 gây tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi và phụ nữ mang thai tại các quốc gia đang phát triển. Tỷ lệ tăng mỗi năm do hệ thống y tế suy yếu, tình trạng kháng thuốc và kháng hóa chất, biến đổi khí hậu và tham họa thiên nhiên xảy ra.HIV/AIDS cũng là một trong các dịch bệnh nguy hiểm nhất trên toàn cầu chưa từng thấy. Năm 2007, ước tính 33.2 triệu người đang sống trong thế giới HIV, trong khi 2.5 triệu người này là đối tượng trẻ em dưới 15 tuổi. Hơn nữa, 420.000 trẻ em dưới 15 tuổi nhiễm mới HIV vào năm 2007. Gần 90% số trẻ em có nhiễm HIV dương tính sống trong khu vực sa mạc Sahara, châu Phi. Tại Ethiopia, trong khi 66% dân sống có nguy cơ mắc sốt rét thì có đến 1.5 triệu người nhiễm virus HIV.

Các bệnh nhiễm trùng này tương tác trực tiếp song hành và cộng hưởng với nhau. Nhiễm trùng virus HIV có thể làm tăng nguy cơ và độ trầm trọng của sốt rét và làm tăng gánh nặng ký sinh trùng điều đó đã làm tăng nguy cơ lan truyền bệnh sốt rét trong cộng đồng. Các đối tượng sống trong vùng SRLH sẽ có tình trạng miễn dịch hoặc bán miễn dịch đối với sốt rét có thể hình thành các triệu chứng sốt rét trên lâm sàng nếu nhiễm HIV đồng thời. Tương tự như vậy, sốt rét có liên quan đến làm tăng sự hoạt hóa mạnh tế bào CD4+ và điều hòa ngược các yếu tố cytokines tiền viêm, cung cấp một vi môi trường lý tưởng để lan rộng virus trong tế bào CD4+ và do đó làm sao chép HIV-1 nhanh hơn.

Hiểu biết về đáp ứng miễn dịch đối với sốt rét và HIV ở người sẽ dẫn chúng ta hiểu hơn về tác động trên lâm sàng và các khía cạnh khác. Nhiều bệnh cảnh nhiễm trùng khác ít nhiều có liên đới làm tăng thoáng qua dung khối hay tải lượng virus HIV. Do vậy, Điều này là hợp lý để giải thích cơ chế vì sao sốt rét lại có tiềm năng làm nặng hơn diễn tiến bệnh của bệnh nhân nhiễm HIV. Mặt khác, kiểm soát mật độ ký sinh trùng trong máu là hình thức miễn dịch qua trung gian , điều này ngăn ngừa hầu hết các trường hợp nhiễm trùng sốt rét trên các bệnh nhân người lớn có tình trạng bán miễn dịch trong vùng SRLH. Về mặt lý thuyết, sự thiếu hụt miễn dịch gây ra bởi nhiễm trùng HIV, làm giảm đáp ứng miễn dịch đối với mật độ ký sinh trùng sốt rét trong máu, nên tăng tần suất cơn sốt rét. Vì thế nhiễm HIV ảnh hưởng lên triệu chứng lâm sàng, độ nặng và đáp ứng điều trị của sốt rét.

Tác động lâm sàng của các tương tác này thay đổi tùy thuộc vào cường độ lan truyền sốt rét ở vùng đó và mức độ miễn dịch của vật chủ cũng như các cá nhân bị ảnh hưởng (người lớn, trẻ em và phụ nữ mang thai). Tuy nhiên, tại các quốc gia cùng lưu hành sốt rét và HIV tại một vùng địa lý lại có rất ít nghiên cứu hoặc không có về vấn đề này. Các số liệu dưới đây được tổng hợp và phân tích dựa trên các số liệu sẵn có về thông tin của sốt rét và nhiễm HIV từ nguồn website Hinarivà PubMed (http://www.who.int/hinari/en/webcite http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmedwebcite). Mặc dù nhiều công trình ấn bản trong 10 năm qua đề cập đến mối tương tác giữa HIV và sốt rét tại khu vực cận sa mạc Saharan, châu Phi và một số nơi khác, chúng ta vẫn còn có nhiều thông tin hơn nữa để hiểu hơn về chủ đề này giúp cho chương trình phòng chống cả hai căn bệnh hiệu quả hơn. Do đó, khoảng 90% số tài liệu y văn trong vòng 10 năm trở lại đây được cập nhật.

Bằng chứng ảnh hưởng của sốt rét lên trên lan truyền HIV/AIDS và diễn tiến bệnh

Trung bình, nếu không điều trị, diễn tiến một bệnh nhân từ khi nhiễm trùng đến khi bị giai đoạn AIDS khoảng 7-10 năm. Đây là một ước tính chính xác tương đối và một số có thể thay đổi tùy thuộc vào bệnh nhân nhiễm HIV. Nhìn chung, tỷ lệ phát triển dường như cao hơn đối với người nhiễm thông qua con đường tiếp xúc theo đường máu so với con đường tiếp xúc theo đường tình dục. Người nhận chế phẩm máu truyền có thể diễn tiến nhanh hơn, trung bình khoảng 7 năm. Các bệnh nhân hemophilia và sử dụng thuốc theo đường tiêm truyền là nhanh thứ hai. Các đồng tính nam có xu hướng tiến triển bệnh chậm hơn một tý.
 

Diễn tiến nhiễm trùng HIV và lây truyền bệnh liên quan mạnh với tải lượng virus. Nồng độ virus gây suy giảm miễn dịch ở người (human immunodeficiency virus type-1_HIV-1) gia tăng được phát hiện trong máu ở các người đàn ông, không lệ thuộc vào lượng tế bào CD4+. Mặc dù vấn đề là đa yếu tố, nồng độ sao chép virus và tải lượng virus trong máu cao có thể cung cấp một sự giải thích về mức độ lưu hành HIV tại khu vực sa mạc Sahara, châu Phi, vì thế nồng độ HIV-1 RNA cao trong máu là tiên đoán diễn tiến bệnh và liên quan đến nguy cơ của bệnh lây truyền qua đường máu, lây truyền dọc, lây truyền qua quan hệ tình dục của virus. Theo đó, sự hiểu biết về các yếu tố làm tăng gánh nặng virus HIV là chỉ điểm tốt cho quản lý bệnh nhân và các nổ lực trong phòng bệnh HIV.
 

Sốt rét là một trong những nguyên nhân quan trọng trên nhiễm trùng HIV ở người lớn cùng tồn tại song hành tại một số vùng nào đó. Tác động của sốt rét trên HIV-1 ít rõ ràng hơn. Sao chép ngược có hiệu quả và sự can thiệp của giả trình tự bộ gen virus HIV trong DNA vật chủ không được thực hiện cho đến khi các tế bào miễn dịch được hoạt hóa. Vì nhiễm trùng sốt rét có liên quan chặt chẽ với sự hoạt hóa tế bào CD4+ và điều hòa ngược của các chất cytokine tiền viêm, chúng cung cấp một vi môi trường lý tưởng cho sự lan rộng virus trong các tế bào CD4+ và vì thế tăng sao chép virus HIV-1 nhanh. Điều này được mô tả đối với sốt rét trên mô hình in vitro. Tải lượng vi virus HIV-1 trong nghiên cứu ở in vivo đầu tiên tăng lên trên các bệnh nhân mắc sốt rét và sau đó giảm sau 4 tuần kể từ khi điều trị sốt rét.

Tại Malawi, nồng độ HIV-1 trong máu tăng cao hơn gấp 7 lần ở các bệnh nhân nhiễm virus HIV-1 kèm theo bị sốt rét cấp tính hơn so với các người cho máu nhiễm HIV-1 mà không bị sốt rét. Như với các nhiễm trùng cấp tính khác, tải lượng virus tăng bị nghịch đảo sau khi điều trị sốt rét. Các thử nghiệm về số liệu này phù hợp với kết quả trên các nghiên cứu in vitro, trong đó sao chép HIV-1 tăng lên gấp 10-100 lần các tế bào đơn nhân trong máu ngoại vi phơi nhiễm với các kháng nguyên sốt rét hoặc hạt sắc tố sốt rét, qua trung gian bởi sự tăng trình diện của các yếu tố hoại tử mô cytokine alpha (tumor necrosis factor alpha_TNF-α).
 

Một số tác giả đã mặc nhiên công nhận sự sống sót rất nhiều được nhìn thấy trên các người lớn và trẻ em nhiễm HIV sử dụng cotrimoxazole hàng ngày với mục đích dự phòng là do giảm nhiễm trùng sốt rét. Trong các nghiên cứu dự phòng bằng cotrimoxazole thực hiên tại các vùng sốt rét lưu hành, sốt rét đã giảm đi hàng định. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có một sự tăng thoáng qua virus HIV trong huyết tương xảy ra trong suốt giai đoạn sốt rét. Tuy nhiên, tải lượng virus giai đoạn dưỡng bệnh tương tự mức độ trước khi bệnh xảy ra, điều này cho thấy dữ kiện này không thay đổi tải lượng virus một cách đáng kể.

Một nghiên cứu khác cũng chỉ ra sốt rét cấp tính có liên quan đến sự gia tăng tải lượng virus và giảm tế bào CD4+, nhưng điều này nhìn chung quay trở lại ở mức độ trước khi nhiễm trùng một vài tuần sau khi điều trị sốt rét thành công. Về mặt lý thuyết, điều này dẫn đến tăng lan truyền virus HIV hoặc diễn tiến bệnh nhanh hơn, nhưng không cho thấy triển vọng gì. Do đó, các nghiên cứu về hiệu quả của sốt rét lên gánh nặng HIV trong máu, cho thấy nồng độ HIV-1-RNA trong máu cao hơn ở các bệnh nhân người lớn nhiễm HIV có mắc sốt rét hơn so với bệnh nhân người lớn nhiễm HIV không có ký sinh trùng sốt rét, với tải lượng virus giảm theo thời gian, có thể do điều trị sốt rét.
 

Một nghiên cứu nhỏ so sánh tải lượng virus trong một nhóm bệnh nhân nhiễm virus HIV tại Guinea-Bissau (hầu hết họ nhiễm virus HIV-2) giữa mùa khô và mùa mưa, đáng chú ý không có sự thay đổi toàn bộ về nồng độ RNA trong huyết tương. Trên các bệnh nhân có ký sinh trùng Plasmodium falciparum, tải lượng virus HIV-2 tăng đáng kể và trong một bệnh nhân, giai đoạn này với sự xuất hiện virus duy nhất trong huyết tương được phát hiện. Nghiên cứu này chỉ ra bằng chứng mạnh về sốt rét lâm sàng có thể góp phần vào lượng virus HIV trong huyết tương cao trên các bệnh nhân HIV (+) (ít nhất trong một thời gian ngắn và có khả năng duy trì liên tục), điều này cho thấy hàm ý tiềm tàng diễn tiến bệnh HIV nhanh hơn cũng như tăng lây truyền virus HIV.

Một nghiên cứu thuần tập tại Cameroon cho thấy nhiễm trùng sốt rét trong suốt quá trình mang thai có thể làm tăng nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con đối với virus HIV. Một cơ chế tiềm tàng cho vấn đề này là cần đánh giá trên in vitro, ở đó gắn các P. falciparum tái tổ hợp dính vào trên bề mặt của chondroitin A trên các tế bào nhau thai người, làm tăng sao chép HIV-1 trong các tế bào đó, có thể thông qua sự kích thích TNF-α.

Một nghiên cứu khác tại Gambia chỉ ra rằng trong số các phụ nữ mang thai nhiễm HIV, hình ảnh mô bệnh học của nhau thai do sốt rét có liên quan đến nồng độ cũng như tải lượng virus HIV-1 RNA trong máu ngoại vi và trong nhau thai cao hơn. Sau khi điều chỉnh các yếu tố nhiễu, các phụ nữ có thay đổi hình ảnh mô bệnh học nhau thai có tải lượng virus HIV-1 cao hơn gấp 1,7 lần trong máu ngoại vi và gấp 2 lần trong nhau thai so với các trường hợp không có sốt rét trên phụ nữ mang thai. Mặc dù soi lam máu lấy từ máu ngoại vi hoặc trong nhau thai cho độ nhạy thấp để phát hiện nhiễm trùng sốt rét, mật độ ký sinh trùng trong máu ngoại vi hoặc trong nhau thai cũng liên quan đến tải lượng virus HIV-1 trong nhau thai cao hơn. Trong số các phụ nữ có ký sinh trùng trong máu nhau thai, mật độ tương ứng liên quan cả tải lượng virus HIV-1 trong máu và trong nhau thai.

Cơ chế làm thế nào sốt rét ảnh hưởng trên quá trình lây truyền HIV và diễn tiến bệnh

Cơ chế miễn dịch

Các nhà khoa học đã nghiên cứu các thay đổi do sốt rét sinh ra trên tải lượng virus từ một loạt các cơ chế miễn dịch. Chẳng hạn, nhiễm trùng P. falciparum có thể thúc đẩy các dại thực bào và tế bào CD4+ để hoạt hóa sao chép virus. Mật độ ký sinh trùng cao có thểgây ra một đáp ứng miễn dịch mạnh, dẫn đến một lượng lớn HIV-1 RNA cao và sốt chỉ ra một đáp ứng cytokine, dẫn đến làm tăng nồng độ HIV-1 RNA. Một số nghiên cứu chỉ ra sẽ tác động trên lây truyền qua đường tình dục của HIV và tăng diễn tiến lâm sàng bệnh được nhìn thấy trên những người có tăng nồng độ HIV-1 RNA trong máu.
 

Nhiều nhiễm trùng xảy đi xảy lại và ngay cả sự miễn dịch có thể dẫn đến tăng trong một thời gian ngắn lượng virus trên những đối tượng nhiễm virus HIV, thường đi kèm theo giảm lượng tế bào CD4+. Điều này được phiên giải là do cơ chế hoạt hóa tế bào T thông qua các cytokine trong đáp ứng miễn dịch với các vi sinh vật, điều này làm tăng quần thể các tế bào nhạy đối với sao chép virus HIV. Sự xuất hiện một lượng lớn TNF-α và các chất cytokine viêm khác trong đáp ứng với nhiễm sốt rét cấp, đi cùng với sự hoạt hóa các tế bào CD4+, sẽ tạo ra một điều kiện lý tưởng cho sao chép virus HIV, đặc biệt vì TNF-α có thể tác động trực tiếp trên HIV trong cơ chế sao chép virus điều hòa ngược đoạn cuối lặp lại. Trong các nghiên cứu in vitro đã chỉ ra cho thấy việc phơi nhiễm nuôi cấy các tế bào T nhiễm virus HIV với các kháng nguyên sốt rét dẫn đến tăng sao chép virus đáng kể. Sao chép virus HIV tăng có liên quan đến tăng sinh tế bào với nồng độ cao và sự hoạt hóa của chúng cũng như bị ngăn chặn bởi các kháng thể với TNF-α.

Ngoài ra, sao chép virus HIV trong các tế bào CD4+ đòi hỏi các tế bào trình diện một kiểu hình hoạt hóa và nhiễm trùng tái đi tái lại để sinh ra hoạt hóa miễn dịch tìm thấy làm tăng diễn tiến bệnh nhân nhiễm virus HIV. Trong các vùng rộng lớn nhiệt đới, HIV và sốt rét cùng tồn tại với cácsự đồng nhiễm tiềm tàng nguy hiểm. Trên các bệnh nhân không có miễn dịch, nhiễm trùng sốt rét có thể dẫn đến một đáp ứng miễn dịch tiền viêm (T helper 1-type) với sự hoạt hóa các tế bào T CD4+, CD4+5RO+ để sinh ra interferon gamma (IFN-γ).

Các tín hiệu từ tế bào T cộng hưởng với các bạch cầu monocyte hoạt hóa và các đại thực bào để sinh ra các interleukin-1 (IL-1) và IFN-γ. Vì các thành phần của tế bào T CD4+ CD4+5RO+ là một đích cho sao chép virus HIV, điều này dường như là một tình huống lý tưởng để lót đường cho các cá nhân nhạy cảm với nhiễm trùng HIV và đối với sự tái hoạt của sao chép virus trên các bệnh nhân nhiễm, tăng khả năng nhiễm trùng sốt rét và có thể dẫn đến tăng diễn tiến đến giai đoạn AIDS và tử vong.
 

Hơn 95% số virus HIV-1 trong huyết tương được sinh ra bởi các CD4+ lymphocytes hoạt hóa. Sốt rét do P. falciparum gây tăng sự hoạt hóa các tế bào CD4+, làm tăng số lượng các tế bào đích nhạy cảm với nhiễm trùng HIV-1, infection, có khả năng dẫn đến tăng nồng độ HIV-1 RNA và tiếp tục một nhiễm trùng mới của các tế bào CD4+ hoạt hóa. Sự hoạt hóa các tế bào CD4+ liên quan đến sốt rét có thể tồn tại dù đã được điều trị. Do đó, nồng độ RNA tăng được phát hiện trong 4 tuần kể từ sau khi điều trị là không đáng ngạc nhiên. Thực tế, các bệnh nhân sốt rét có lượng tỷ lệ phần trăm tế bào CD4+ cao nhất vào thời điểm đưa vào nghiên cứu cho thấy RNA cao nhất giảm song hành với giả thuyết hoạt hóa tế bào CD4+ chịu trách nhiệm một phần trong vấn đề tăng nồng độ HIV-RNA. Như một sự lựa chọn, các bệnh nhân sốt rét có phần trăm tế bào CD4+ cao nhất có thể kiểm soát tốt hơn, nên giảm nhanh RNA.

Tăng mức HIV-1 RNA liên quan đến sốt rét có thể qua trung gian một loạt cơ chế miễn dịch. Nhiễm P. falciparum có thể thúc đẩy các đại thực bào và tế bào CD4+ hoạt hóa sự sao chép của virus. Các cơ chế này có thể giải thích sự khác biệt trong các nhóm được phân lọai theo mức độ ký sinh trùng trong máu, sốt, và tế bào CD4+ hiện có trong một số nghiên cứu. Mật độ KSTSR cao có thểgây ra sự hoạt hóa miễn dịch mạnh, dẫn đến một lượng lớn HIV-1 RNA. Sốt chỉ ra một đáp ứng cytokine mà có thể làm tăng nồng độ virus HIV-1 RNA. Mô thức tăng nồng độ HIV-1 RNA trong số nhưng người có hàm lượng CD4+ thấp hơn và nồng độ HIV-1 RNA cao hơn ở thời điểm ban đầu có thể chỉ ra chức năng tế bào CD4+ kém, điều này hạn chế đáp ứng miễn dịch bình thường với các cytokine kích thích sốt rét, dẫn đến giảm một lượng HIV-1 RNA đã tăng trước đó.

Tuy nhiên, kết quả có phần tranh cãi thu nhận từ các nghiên cứu in vitro. Trước tiên, một sự gia tăng sao chép virus HIV trong các tế bào đơn nhân trong máu phơi nhiễm hoặc với kháng nguyên sốt rét hoặc với các sắc tố sốt rét đã được nhìn thấy, và điều này chỉ ra có mối liên quan tăng sinh chất TNF-α. Tiếp sau đó, có sự kích thích ngắn với kháng nguyên P. falciparum theo cơ chế điều hòa down-regulated CCR5 nhưng không phải CXCR4. Tuy nhiên, kích thích điều hòa “up-regulated CCR5” dài hơn thông qua quá trình sinh IFN-γ và IFN-γ ngăn chặn sao chép HIV. Gần đây hơn, sự hoạt hóa các tế bào đơn nhân thông qua các kháng nguyên sốt rét chỉ ra hỗ trợ các tế bào này nhạy cảm với nhiễm trùng virus HIV và sao chép tái hoạt động của HIV nội sinh trong tế bào của các bệnh nhân trưởng thành nhiễm HIV. Sự khác biệt về các chủng virus, loại tế bào vật chủ và tình trạng nuôi cấy có thể giải thích cho các báo cáo còn đang tranh luận này.
 

Trong suốt giai đoạn cấp tính của sốt rét, khoảng 10% só ca nhiễm virus HIV-1 pool bắt nguồn từ các đại thực bào CD14+ và đây có thể ước tính chưa chính xác các quan điểm giới hạn về hiệu quả của các đáp ứng miễn dịch vốn có. Tác động của việc đồng nhiễm với sốt rét tương tự như khi nhiễm cùng với lao trên các sao chép virus virus HIV-1 và được minh chứng thông qua các xét nghiệm trên mô hình chuột chuyển gen nhiễm HIV, trong đó sốt rét ở chuột đã tạo ra cơ chế điều hòa up-regulated sao chép tiền virus, biểu hiện bên trong các tế bào trình diện kháng nguyên. Các đại thực bào sống lâu, ổ chứa di chuyển của nhiễm trùng virus HIV-1, phát tán lan tỏa virus đến các tế bào lymphocyte trong cơ chế tương tác tế bào - tế bào.

Do đó, các tế bào này có thể hiệu ứng duy trì liên tục trên sự truyền virus và phát tán virus đi xa, qua đó thức đẩy diễn tiến bệnh. Sao chép virus HIV-1 bên trong các đại thực bào cũng có thể ít nhạy hoặc ít cho tiếp cận với thuốc chống virus.

Ngoài ra, tác động ảnh hưởng của đồng nhiễm virus HIV và sốt rét trên các tế bào hình cây (dendritic cells_DCs) vẫn chưa được nghiên cứu sâu. DCs có vai trò quan trọng trong việc duy trì tính miễn dịch tế bào chống lại virus HIV, tế bào CD8+ đặc hiệu và đáp ứng tế bào CD4+ duy trì liên tục có liên quan đến cơ chế bảo vệ chống lại virus HIV. Như bất kỳ nhiễm trùng nào khác, khởi đầu đáp ứng miễn dịch lệ thuộc vào sự trình diện các kháng nguyên virus bởi các tế bào DCs với tế bào T. Các DCs có thể trình diện có mặt hoặc là nội sinh khi nhiễm hoặc có thể phản ứng chéo sau khi bắt cặp với kháng nguyên virus từ các tế bào nhiễm hoặc các tế bào apoptotic cells và một số nghiên cứu cho thấy nhiễm trùng sốt rét có thể làm duy yếu các chức năng tế bào DCs ở người trên in vitro. Hơn nữa, một báo cáo gần đây trên mô hình sốt rét ở các động vật gặm nhấm, các DCs từ động vật nhiễm cho thấy hoạt tính trình diện chéo bị suy giảm (impaired cross-presentation activity). Do đó, có thể ảnh hưởng của ức chế này lên trên quá trình thiết lập và/ hoặc bảo tồn chống miễn dịch của virus HIV.

Sốt rét ảnh hưởng đến các thành phần bạch cầu lưu hành trong máu ngoại vi

Thông thường công thức máu ngoại vi bao gồm 3 yếu tố tế bào chính là hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu. Nhiễm trùng sốt rét được biết sinh ra cơ chế tự chết tế bào (apoptosis), phần trăm tự chết tế bào đơn nhân tự phát đó tìm thấy cao hơn trên các bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng P. falciparum cấp tính hoặc mạn tính không triệu chứng, so sánh bắt cặp tuổi và giới tính. Do đó, chu trình chết tế bào sinh ra do ký sinh trùng có thể góp phần vào làm giả đáp ứng miễn dịch trực tiếp liên đới các kháng nguyên, thông qua làm tăng tính dễ hỏng của các tế bào hiệu ứng tiềm tàng. Do vậy, ngoài các cytokines (TNF-α và IFN-γ) và sự ẩn cư bùn tắc được hoạt hóa qua trung gian kháng nguyên sốt rét của các tế bào lymphocyte trong các hạch lympho, tiếp đó gây giáng hóa các tế bào này trong máu ngoại vi, chu trình chết tế bào sinh ra do kháng nguyên sốt rét cũng óc thể đóng vai trò trong việc làm thay đổi thành phần các tế bào lymphocyte trong máu ngoại vi trong suốt quá trình bệnh sốt rét.
 

Trên các trẻ em bị sốt rét ác tính thể não hoặc sốt rét chưa biến chứng, tần số và số lượng tế bào T tuyệt đối trong máu ngoại vi cũng thấp hơn so với bình thường và mức độ dòng chảy tế bào T sinh bệnh từ máu ngoại vi có liên quan đến độ trầm trọng của bệnh. Các nghiên cứu đã báo cáo với tổng số bạch cầu chung và lymphocyte thấp hơn và số lượng các tế bào hoạt hóa trên các bệnh nhân sốt rét lại cao hơn trên các mô hình nghiên cứu khác nahu giữa sốt rét do P. falciparumP. vivax. Ngoài ra, trong các nghiên cứu tiến hành trên các trẻ em tuổi từ 3-6nhiễm ký sinh trùng P. falciparum, có số lượng tế bào CD4+ và CD8+ đếm được thấp hơn, phát hiện được trên các ca sốt rét cấp tính khi so sánh với các trẻ em không có ký sinh trùng sốt rét trong máu hoặc trên các bệnh nhân sốt rét không có triệu chứng.

Điều hòa đáp ứng tế bào T CD8+ T trong suốt thời gia mắc sốt rét cũng thường diễn ra. Sự ức chế đáp ứng tế bào CD8+ T trong giai đoạn ký sinh trùng trong hồng cầu có diễn biến đối với đáp ứng miễn dịch rộng hơn không chỉ đối với sốt rét mà còn với các tác nhân gaauy nhiễm trùng khác. Ngoài ra, sự ức chế đáp ứng miễn dịch tế bào T CD8+ cùng tồn tại song hành với sốt rét lưu hành và bệnh Burkitt’s lymphoma.Người ta đề nghị rằng sốt rét gây giảm kiểm oats virus Epstein Bar (EBV) trên các tế bào lymphocyte nhiễm hoặc cung cấp một tác nhân phân bào hoặc cơ chế kích thích tế bào B phát triển. Rối loạn điều hòa tế bào T CD8+ như một hậu quả của sốt rét nhiễm đồng thời, có thể làm nghiêm trọng hơn. Sự ức chế các đáp ứng tế bào T CD8+ đặc hiệu trong suốt giai đoạn ký sinh trùng trong máu có thể giải thích về lý do tải lượng virus cao hơn trên những ca có HIV dương tính không chỉ trong thời gian mắc sốt rét mà ngay cả khi sau nhiễm sốt rét P. falciparum.
 

Sốt rét gây ra thiếu máu nặng

Dự phòng và kiểm soát không đầy đủ đối với sốt rét có liên quan đến thiếu máu nặng trên bệnh nhân, thường cần đến phải truyền máu. Mặc dù, các vấn đề này được coi như là các biện pháp y tế công cộng quan trọng, an toàn truyền máu vẫn còn chưa thấu đáo tại nhiều quốc gia trong khu vực cận sa mạc Sahara, châu Phi và sàng lọc virus HIV-1 không đầy đủ có thể là một vấn đề góp phần gây lan rộng bệnh. Tương tự như thế, trên các phụ nữ mang thai mắc cả sốt rét và nhiễm HIV-1 có nguy cơ thiếu máu nghiêm trọng hơn các phụ nữ chỉ bị nhiễm trùng một trong hai tác nhân và cũng có nguy cơ cao hơn về vấn đề sinh non hoặc đẻ con ra nhẹ cân. Với nguy cơ nhiễm trùng lan truyền virus HIV-1 như thế, sử dụng truyền máu trong quản lý các bệnh nhi thiếu máu trở nên là một vấn đề quyết định lâm sàng quan trọng tại châu Phi.

Tỷ lệ nhiễm virus HIV trong số các người cho máu tăng lên ở hầu hết các quốc gia đang phát triển, và ít nhất 10% số trẻ em châu Phi mắc phải virus HIV và chuyển sang giai đoạn AIDS (acquired immunodeficiency syndrome_AIDS) có tăng truyền máu nhiễm trùng. Nhiều quốc gia châu Phi, đặc biệt tại nơi mà sốt rét do P. falciparum đang lưu hành và HIV/AIDS là một vấn đề y tế quan trọng, không thể duy trì đầy đủ nguồn máu và thường thiếu đi sự sàng lọc tất cả nguồn máu được cho của họ. Thậm chí máu được sàng lọc cũng nhiễm trùng, nguy cơ lệ thuộc vào tỷ lệ huyết thanh nhiễm trùng trong số người cho máu và điều này còn liên quan đến khâu chất lượng sàng lọc.

Tài liệu tham khảo

1.UNAIDS/WHO: AIDS epidemic update. Geneva: UNAIDS/WHO; 2004.

2.Martens P, Hall L: Malaria o­n the move: human population movement and malaria transmission. Emerg Infect Dis 2000, 6(2):28-45.

3.Rowe AK, Rowe SY, Snow RW: The burden of malaria mortality among African children in the year 2000. Int J Epidemiol 2006, 35(3):691-704. PubMed Abstract | Publisher Full Text

4.WHO: WHO expert committee o­n malaria 20th Report. Geneva: WHO; 2000:71. [WHO Technical Report Series 892]

5.Ministry of Health: Guideline for malaria vector control in Ethiopia; malaria and other vector born diseases prevention and control team. Diseases prevention & Control Department. Addis Ababa: MOH; 2002. PubMed Abstract

6.Corbett EL, Steketee RW, Kuile FO, Latif AS, Kamal A, Hayes RJ: HIV-1/AIDS and the control of other infectious diseases in Africa. Lancet 2000, 359:2177-2187.

7.Mitike G, Lemma W, Berhane F, Ayele R, Assefa AT: HIV/AIDS Behavioural Surveillance Survey. Addis Ababa, Ethiopia: Ministry of Health; 2002:143.

8.Ayisi JG: The effect of dual infection with HIV and malaria o­n pregnancy outcome in western Kenya. AIDS 2003, 17:585-946. PubMed Abstract | Publisher Full Text

9.World Health Organization: Malaria and HIV interactions and their implications for Public Health Policy. Geneva, Switzerland: WHO; 2004.

10.Chandramohan D, Greenwood BM: Is there an interaction between human immunodeficiency virus and plasmodium falciparum? J Epid 1998, 27:296-301. Publisher Full Text

11.Kamya MR: Effect of HIV-1 infection o­n antimalarial treatment outcomes in Uganda: a population-based study. J Infect Dis 2000, 193:9-15.

12.Mellors JW, Rinaldo CR, Gupta P: Prognosis in HIV-1 infection predicted by the quantity of virus in plasma. Science 1996, 272:1167-1170. PubMed Abstract | Publisher Full Text

13.Dyer JR, Kazembe P, Vernazza PL: High levels of HIV-1 in blood and semen of seropositive men in sub-Saharan Africa. J Infect Dis 1998, 177:1742-1746. PubMed Abstract | Publisher Full Text

14.Francesconi P, Fabiani M, Dente MG, Lukwiya M, Okwey R, Ouma J: HIV, malaria parasites, and acute febrile episodes in Ugandan adults: a case–control study. AIDS 2001, 15:2445-2450. PubMed Abstract | Publisher Full Text

15.Worku S, Bjorkman A, Troye-Blomberg M: Lymphocyte activation and subset redistribution in the peripheral blood in acute malaria illness: distinct T cell patterns in plasmodium falciparum and P. Vivax infections. Clin Exp Immunol 1997, 108:34-41. PubMed Abstract | Publisher Full Text | PubMed Central Full Text

16.Hoffman IF, Jere CS, Taylor TE: The effect of plasmodium falciparum o­n HIV-1 blood plasma concentration. AIDS 1999, 13:487-494. PubMed Abstract | Publisher Full Text

17.Bentwich Z, Maartens G, Torten D: Concurrent infections and HIV pathogenesis. AIDS 2000, 14:2071-2081. PubMed Abstract | Publisher Full Text

18.Xiao L, Owen SM, Rudolph DL, Lal RB, Lal AA: Plasmodium falciparum antigen-induced human immunodeficiency virus type 1 replication is mediated through induction of tumor necrosis factor alpha. J Infect Dis 1998, 177:437-445. PubMed Abstract | Publisher Full Text

19.Migot F, Ouedraogo JB, Diallo J: Selected plasmodium falciparum specific immune responses are maintained in AIDS adults in Burkina Faso. Parasit Immunol 1996, 18:333-339. Publisher Full Text

20.Kublin JG, Patnaik P, Jere CS, Miller WC, Hoffman IF, Chimbiya N, Pendame R, Taylor TE, Molyneux ME: Effect of plasmodium falciparum malaria o­n concentration of HIV-1-RNA in the blood of adults in rural Malawi: a prospective cohort study. Lancet 2005, 365:233-240. PubMed Abstract | Publisher Full Text

21.Ariyoshi MS, Van der Loeff N, Berry S, Jaffar H: Plasma HIV viral load in relation to season and to plasmodium falciparum parasitaemia. AIDS 1999, 13:1145-1146. PubMed Abstract | Publisher Full Text

22.Ayouba C, Badaut A, Kfutwah A: Specific stimulation of HIV-1 replication in human placental trophoblasts by an antigen of plasmodium falciparum. AIDS 2008, 22(6):785-787. PubMed Abstract | Publisher Full Text

23.Donovan D, Ariyoshi K, Milligan P, Ota M, Yamuah L, Sarge-Njie R: Maternal plasma viral RNA levels determine marked differences in mother-to-child transmission rates of HIV- 1 and HIV-2 in the Gambia. AIDS 2000, 14:441-448. PubMed Abstract | Publisher Full Text

24.Lawn SD, Butera ST, Folks TM: Contribution of immune activation to the pathogenesis and transmission of human immunodeficiency virus type 1 infection. Clin Microbiol Rev 2001, 4:753-777.

25.Weissman D, Barker T, Fauci S: The efficiency of acute infection of CD4+ T cells is markedly enhanced in the setting of antigen-specific immune activation. J Exp Med 1996, 183:687-692. PubMed Abstract | Publisher Full Text | PubMed Central Full Text

26.Riley EM: Is T cell priming required for initiation of pathology in malaria infections? Immunol Today 1999, 20:228-233. PubMed Abstract | Publisher Full Text

27.Spina C, Prince H, Richman D: Preferential replication of HIV-1 in the CD4+5RO memory cell subset of primary CD4+ lymphocytes in vitro. J Clin Invest 1997, 99:1774-1785. PubMed Abstract | Publisher Full Text | PubMed Central Full Text

28.Perelson AS, Essunger P, Ho DD: Dynamics of HIV-1 and CD4+ lymphocytes in vivo. AIDS 1997, 11:17-24. PubMed Abstract | Publisher Full Text

29.Pisell TL, Hoffman IF, Jere CS: Immune activation and induction of HIV-1 replication within CD14 macrophages during acute plasmodium falciparum malaria coinfection. AIDS 2002, 16:1503-1509. PubMed Abstract | Publisher Full Text

30.Freitag C, Chougnet C, Schito M: Malaria infection induces virus expression in human immunodeficiency virus transgenic mice by CD4+ T cell-dependent immune activation. J Infect Dis 2001, 183:1260-1268. PubMed Abstract | Publisher Full Text

31.Perno CF, Newcomb FM, Davis DA: Relative potency of protease inhibitors in monocytes/macrophages acutely and chronically infected with human immunodeficiency virus. J Infect Dis 1998, 178:413-422. PubMed Abstract | Publisher Full Text

32.Pantaleo G, Koup RA: Correlates of immune protection in HIV-1 infection. What we know, what we don’t know, what we should know. AIDS 2004, 10:806-810.

33.Maranon C, Desoutter JF, Hoeffel G: Dendritic cells cross-present HIV antigens from live as well as apoptotic infected CD4+ T lymphocytes. AIDS 2004, 101:6092-6097.

34.Wilson NS, Behrens GM, Lundie RJ: Systemic activation of dendritic cells by Toll-like receptor ligands or malaria infection impairs cross-presentation and antiviral immunity. AIDS 2006, 7:165-172.

35.Toure-Bolde A, Sarthou J, Aribot GM, Trape J, Rogier C, Roussilhon C: P. falciparum induced apoptosis inhuman mononuclear cells. Infect Immunol 1996, 64:744-750.

36.Hviid L, Theander T, Abduhadi H, Abufeid Y, Bayoumi R, Jesen J: Transient depletion of T cells with high LFA-1 expression from peripheral circulation during P. falciparum malaria. Eur J Immunol 1992, 21:1249-1253.

37.Hogg N: Roll, roll your leucocytes gently down the vein. Immunol Today 1997, 13:113-115.

38.Greenberg AE, Nguyen Dinh P, Mann JM, Kabote N, Colebunders RL, Francis H, Quinn TC: The association between malaria, blood transfusion and HIV seropositivity in a pediatric population in Kinshasa, Zaire. AIDS 1995, 259:545-549.

39.Lackritz EM, Ruebush TK, Zucker JR, Adungosi JE, Were JB, Campbell CC: Blood transfusion practices and blood banking services in a Kenyan hospital. AIDS 1993, 7:995-999. PubMed Abstract | Publisher Full Text

40.John GC, Nduati RW, Mbori-Ngacha DA: Correlates of mother-to-child human immunodeficiency virus type 1 (HIV-1) transmission: association with maternal plasma HIV-1 RNA load, genital HIV-1 DNA shedding, and breast infections. J Infect Dis 2001, 183:206-212. PubMed Abstract | Publisher Full Text

41.Inion I: Placental malaria and perinatal transmission of human immunodeficiency virus type 1. J Infect Dis 2003, 188:1675-1678. PubMed Abstract | Publisher Full Text

42.Mwapasa V, Rogerson SJ, Molyneux ME: The effect of plasmodium falciparum malaria o­n peripheral and placental HIV-1 RNA concentrations in pregnant Malawian women. AIDS 2004, 18:1051-1059. PubMed Abstract | Publisher Full Text

43.Ned RM, Moore JM, Chaisavaneeyakorn S, Udhayakumar V: Modulation of immune responses during HIV-malaria co-infection in pregnancy. Trends Parasit 2005, 21:284-291. Publisher Full Text

44.Ter Kuile F: The burden of co-infection with human immunodeficiency virus type 1 and malaria in pregnant women in sub-Saharan Africa. AmJTrop Med Hyg 2004, 71:41-54.

45.European Collaborative Study: Risk factors for mother-to child transmission of HIV-1. Lancet 1992, 339:1007-1012. PubMed Abstract | Publisher Full Text

46.Ticconi C, Mapfumo M, Dorrucci M, Naha N, Tarira E, Pietropolli A: Effect of maternal HIV and malaria infection o­n pregnancy and perinatal outcome in Zimbabwe. AIDS 2003, 34:289-294.

47.Nti BK, Slingluff JL, Keller CC: Stage-specific effects of plasmodium falciparum-derived hemozoin o­n blood mononuclear cell TNF-α regulation and viral replication. AIDS 2005, 19:1771-1780. PubMed Abstract | Publisher Full Text

48.Harms G, Feldmeier H: HIV infection and tropical parasitic diseases deleterious interactions in both directions. Trop Med Int Health 2002, 7:479-488. PubMed Abstract | Publisher Full Text

49.Tkachuk AN, Moormann AM, Poore JA: Malaria enhances expression of CC chemokine receptor 5 o­n placental macrophages. AmJTrop Med Hyg 2001, 183:967-972.

50.Bulterys M, Nolan ML, Jamieson DJ, Dominguez K, Fowler MG: Advances in the prevention of mother-to-child HIV-1 transmission current issues, future challenges. AID Science [serial o­n the Internet] 2002 Feb.

51.Moore JM, Nahlen BL, Misore A, Lal AA et al., Immunity to placental malaria, elevated production of interferon-by placental blood mononuclear cells is associated with protection in an area with high transmission of malaria. Am J Trop Med Hyg 1999, 179:1218-1225.

52.Berger EA, Murphy PM, Farber JM: Chemokine receptors as HIV-1 coreceptors: roles in viral entry, tropism, and disease. Immunol Today 1999, 17:657-700.

53.Dayachi F, Kabongo L, Ngoie K. Decreased mortality from malaria in children with symptomatic HIV infection. Int Conf AIDS. 16-21 Jun 1991;2:164

54.Eckwalanga M et al. Murine AIDS protects mice against experimental cerebral malaria: down regulation by interleukin 10 of a T- helper type 1 CD4+ cell-mediated pathology. Proc Natl Acad Sci USA. 1994 Aug 16;17:8097-101

55.Muller O, Moser R. The clinical and parasitological presentation of Plasmodium falciparum malaria in Uganda is unaffected by HIV-1 infection. Trans R Soc Trop Med Hyg. 1990 May-Jun;3:336-8.

56.Chrystie IL, Palmer SJ, Voller A, Banatvala JE. False positive malaria and leishmania serology associated with HIV positivity. Int Conf AIDS. 1993 Jun 6-11;2:763

57.Risk of transmission of AIDS and other blood-related diseases during routine malaria activities. Bull World Health Organ. 1991;2:242-3

58.Greenberg AE. Studies of the relationship between Plasmodium falciparum malaria and HIV infection in Africa. Int Conf AIDS. 1989 Jun 4-9:983

59.Fleming AF. Tropical obstetrics and gynaecology. 1. Anaemia in pregnancy in tropical Africa. Trans R Soc Trop Med Hyg. 1989 Jul-Aug;4:441-8.

60.Lackritz E, Campbell C, Hightower A, Ruebush T, Were J. Is the cure worse than the disease: anemia, malaria, blood transfusion and child mortality in western Kenya. Int Conf AIDS. 1990 Jun 20;236(1):273

61.Weinke T, Schere W, Pohle HD. Malaria tropica in HIV infection. Klin Wochenschr. 1990 May17; 68(10):533-6

62.Maheshwari RK et al. Effect of interferon in malaria infection. Immunol Lett. 1990 Aug;1-3:53-7

63.Baumann S, Geier SA, Noehl MA, Goebel FD. On the epidemiologic association between endemic Kaposi’s sarcoma and malaria. Int Conf AIDS. 1994 Aug; 1:(170):7-12

64.Schippers EF, Hugen PW, den Hartigh J, et al. No drug-drug interaction between nelfinavir or indinavir and mefloquine in HIV-1-infected patients. AIDS 2000;14:2794-5.

65.Khaliq Y, Gallicano K, Tisdale C et al. Pharmacokinetic interaction between mefloquine and ritonavir in healthy volunteers. Br J Clin Pharmacol2001;51:591-600

 

 

Ngày 23/10/2015
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích