Giới thiệu về tình hình ung thư trên thế giới Ung thư được xem là một trong những tứ chứng nan y đến nay dường như chưa có phương thức điều trị nào hiệu quả hay khỏi bệnh, nếu có vả chăng chỉ là các phương thức điều trị hỗ trợ, giúp kéo dài sự sống cho người bệnh. Mỗi giới nam và nữ có một loại ung thư dẫn đầu, hiện tại tỷ lệ dẫn đầu ấu qua bao thập niễn vẫn chưa cải thiện được.
Nếu như ung thư vú đứng hàng đầu của phụ nữ thì ung thư phổi lại là dẫn đầu loại ung thư trên nam giới, ung thư vú là các tế bào ác tính phát triển từ những tế bào ống hay những tế bào nang của vú, nếu không chữa trị sớm, các tế bào ung thư sẽ phát triển nhanh trong nhu mô vú, đi vào các mạch máu hay bạch huyết, di căn đến các hạch và có thể lan đến bộ phận khác, gây ra đau đớn, tắc nghẽn một số cơ quan (hội chứng xâm lấn) cho cơ thể và cuối cùng đưa bệnh nhân vào cõi chết. Ung thư phổi đứng đầu trong 10 loại ung thư thông thường nhất và dẫn đầu loại ung thư của nam giới, đồng thời là nguyên nhân hàng đầu gây ra tử vong. Ðể hiểu rõ tầm quan trọng của tử vong vì ung thư phổi, ta hãy so sánh với ung thư vú: số người phụ nữ bị ung thư vú loại xâm lấn là trên 180.000 người nhưng số tử vong vì ung thư vú chỉ có 40.000 người. Số người chết vì ung thư phổi mỗi năm cao hơn tổng số người chết vì các ung thư ruột, ung thư vú và ung thư cổ tử cung, do vậy có thể nói là khi đã bị ung thư phổi, bệnh nhân sẽ có cơ hội tử vong cao nhất so với các ung thư khác. Ðây là lý do khiến các cơ quan y tế quốc gia cũng như Hội ung thư Việt Mỹ phải đặc biệt quan tâm đến vấn nạn ung thư phổi.
Trong thời gian qua, thế giới có những bước đột phá trong việc trị liệu ung thư, ưu thế đi sâu vào hội chẩn và cùng tiên phong trong các ưu thế kỹ thuật như tại BV hiện đại Quảng Châu (Quangzhou modern hospital), BV đại học y dược Huế: [1] Kỹ thuật dao hóa chất (Ar He) hiện đại nghĩa là làm lạnh chết ung thư; [2] Kết hợp đông và tây y hiện đại chống ưng thư nhằm bổ sung ưu thế cho nhau; [3] Y học hạt nhân điều trị ung thư; [4] Kỹ thuật xạ tần nhiều đầu hiện đại nhằm thiêu chết khối u; [5] Nút mạch nghĩa là bỏ đói khối u; [6] Điều trị bằng nội sinh nhiệt trường hiện đại tức là dùng nhiệt giết khối u; [7] Biện pháp hóa học làm tăng hiệu quả, giảm độc tố nghĩa là thâm nhập cục bộ bằng hóa chất; [8] vũ khí laser hiện đại điều trị ưng thư hay điều trị bằng động lực ánh sáng; [9] điều trị miễn dịch hiện đại hay phương pháp tên lửa sinh học; [10] Gen trị liệu tức là nhằm vào nguồn gốc tế bào ung thư. Tuy nhiên, bước đột phát về dược trị liệu ung thư trong thời gian qua sử dụng thảo dược Trung Quốc có hiệu quả tương đương hoặc hơn các thuốc cổ điển được xem là điểm nhấn trong thế kỷ này.
Một số nghiên cứu artemisinine và dẫn xuất điều trị ung thư 10 năm qua
Hợp chất artemisinine được chiết suất từ cây thanh hao hoa vàng. Cách nay hàng ngàn năm, người Trung Quốc đã dùng nó để điều trị sốt rét; ngày nay, các nhà khoa học chứng minh rằng loại thảo dược thần kỳ này còn có hiệu quả chống lại ung thư một số cơ quan ở người và động vật, các công trình nghiên cứu này đã được công nhận và cho đăng tải trên một số tạp chí y học nổi tiếng thế giới.
Liệu pháp điều trị ung thư mới với Artemisinine:
Tất cả các tế bào ung thư đều cần nhiều sắt để sao chép và nhân lên trong quá trình phát sinh và phát triển của chúng. Nói một cách khác, tế bào ung thư có nồng độ sắt bao giờ cũng cao hơn những tế bào bình thường khác. Trong suốt quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã bơm chất sắt vào trong các tế bào ung thư với lượng tối đa có thể, kế tiếp họ bơm artemisinine vào các tế bào đó, kết quả cho thấy artemisinin đã có một đặc tính là giết chết và ức chế tế bào ung thư phát triển (H.Lai và NP Singh.,2000);
Một nghiên cứu khác đồng tác giả cho biết liên quan đến tế bào ung thư bạch cầu với thuốc artemisinine, những tế bào ung thư sẽ bị phá hủy nhanh trong vòng vài giờ khi cho “phơi nhiễm” với chất holotransferrin (chất này sẽ gắn kết với receptor transferrin để vận chuyển sắt vào trong tế bào) và dihydroartemisinin (H.Lai và NP Singh, đăng trên tạp chí Selective Cancer Cell Cytoxicity from Exposure in Dihydroartemisinin and Holotransferrin, Cancer Letters, 91:41-46, 1995);
Hiệu quảtrên 55 dòng tế bào ung thư, đó là kết luận về thảo dược artemisinine có các hoạt chất chống lại 55 loại dòng tế bào ung thư (ung thư bạch cầu, ung thư đại tràng, u hắc tố melanoma, ung thư vú, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư thận và các khối u ác tính ở hệ thần kinh trung ương), hiệu quả của artemisinin được so sánh với một số thuốc chuẩn đang điều trị khác của bệnh ung thư, so với các thuốc đó thì hiệu quả và độc tính thấp của artemisinin đã đưa loại thảo dược này lên một tầm cao có tiềm năng trong liệu pháp chống lại căn bệnh ung thư;
Tác động lên tế bào ung thư vú, vì khi đó artemisinien thành một chất gây độc tế bào với sự có mặt của chất sắt. Để điều tiết một tỷ lệ sắt hấp thu lớn hơn những tế bào bình thường, đặc điểm bề mặt của những tế bào ung thư có nồng độ receptor tiếp nhận transferrin cao hơn thông qua con đường tế bào cho phép chất sắt vào trong tế bào. Trong những tế bào ung thư vú, chúng có số lượng receptor transferrin trên bề mặt của những tế bào ung thư nhiều hơn các tế bào vú bình thường. Một nghiên cứu gần đây cũng công bố cả những tế bào ung thư cũng như các tế bào bình thường đều được tiêm thử artemisinin. Kết quả cho thấy hiệu quả artemisinin giết các tế bào ung thư vú đã đề kháng với phương pháp tia xạ (radiation-resistant breast cancer cells) trên thử nghiệm in vitrorất tốt. Tuy nhiên, hiệu quả trên các tế bào bình thường thì rất nhỏ, kết luận rằng artemisinine đã chứng minh có ưu điểm, dùng đơn giản, hiệu quả và tính kinh tế cao khi điều trị ung thư (NP Singh và H Lai, 2001);
Tác dụng trên ung thư phổi tế bào nhỏ: khi thử artemisinin trên những tế bào của ung thư phổi tế bào nhỏ theo thể nhạy (H69) và đa kháng thuốc (H69VP), thuốc artemisinine được tiêm cùng lúc transferrin để tăng nồng độ sắt, người ta thấy hiệu ứng gây độc tế bào của artemisinin đối với các tế bào H69VP thấp hơn 10 lần so với các tế bào H69. Điều đó kết luận rằng artemisinin là một phần tác động vào kiểu hình kháng thuốc, thử nghiệm này cũng chỉ ra trước khi điều trị các tế bào H69 không có nồng độ sắt thấp hơn đối với artemisinin ngược lại đối với các tế bào H69 VP, nồng độ sắt lại thấp hơn gần bằng với mức nhạy của thuốc, nên có thể dùng artemisinin cùng với transferin trong điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ đã kháng thuốc (Sadava.D và cs., 2002);
Những nghiên cứu được tiến hành riêng biệt, mù đôi tại Đức và Australia cho biết các hoạt chất của 20 loại thuốc và hóa chất tác động lên các dòng tế bào ung thư bạch cầu dạng CCRF-CEM gồm có artemisinin, artesuante, balcalein, baicalin, barberine, bufalin, cantharidin, cephalotaxine, curcumin, daidzein, daidzin, diallyl, disulfide, ginsenoside, Rh2, glycirrhizic acid, isonardosinon, homoharringtonine, nardosinon, nardofuran, puerarin, quercetin, tannic acid, tetrahydronardosinon. Song, một điều lý thú rằng kết quả nghiên cứu đã cho biết artesunate làm tăng tích tụ daunorabicin trong các tế bào CEM/E1000 nên hiệu quả điều trị tăng lên có ý nghĩa. Vì artesunate và bufalin đều có khả năng chống lại ung thư bạch cầu, nên thuốc artesunate có thể dùng đơn lẻ hoặc kết hợp vớidaunonrubicin trong việc điều trị các tế bào ung thư đa kháng thuốc và tương lai có thể 2 thuốc này phối hợp trong một dạng thuốcđiều trị ung thư bạch cầu (Efferth và cs., 2002);
Điều chỉnh trị liệu đa kháng thuốc và chống lại khối u trong ung thư: arteminisin có thể ngăn ngừa quá trình lan rộng các tế bào ung thư và thuốc này có cơ chế cộng lực gia tăng độc tính tế bào của một số thuốc perarubicin và doxorubicin trong quá trình trình diện kháng nguyên P-glycoprotein và MRP, nhưng hiệu quả không tăng khi phối hợp tác động trên các dòng tế bào nhạy cảm thuốc (Reungpatthanaphong. P và cs., 2002);
Khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư bạch cầu và ung thư phổi: các nhà nghiên cứu khám phá một phân loại độc đáo, mới lạ của các hợp chất mà chúng có thể phá hủy những tế bào ung thư sau khi bổ sung artemisinin trong một nghiên cứu thử nghiệm được tiến hành gần đây, dẫn suất mới này chứa nhóm cyano và aryl và rất hiệu quả trong việc phá hủy tiêu diệt các tế bào ung thư bạch cầu và ung thư phổi ở người (Li, Ying và cs., 2001);
Tiêu diệt một số tế bào khối u là tiềm năng của artemisinin liên quan đến endoperoxides được thử nghiệm về khả năng tiêu diệt các tế bào khối u gây bụng báng (Ehrlich ascites tumor cells_EAT) hiệu quả tốt. Thật ngạc nhiên, các dẫn suất của nó có tiềm năng rất lớn trong việc phá hủy các tế bào ung thư, thử nghiệm cũng xác định khả năng artemisinin và dẫn suất có thể diệt các tế bào EAT cells ở nồng độ cao hơn nồng độ thường dùng điều trị sốt rét trên in vitro. (Woerdenbag, HJ và cs., 1993);
Điều trị u não và giảm triệu chứng bệnh sa sút trí tuệ: mặc dù artemisinin không thể hòa tan trong nước được, song nó có thể đi xuyên qua hàng rào mạch máu não với nồng độ cao. Do đó, người ta có thể áp dụng lợi điểm này để điều trị tiêu diệt hoặc làm chậm lại phát triển của các tế bào khối u ở não và một số bệnh lý về não màng não khác. Bên cạnh đó, trong một thử nghiệm gần đây, alkaloid của artemisia asiatica được chuyển hóa thành các phân tử nhỏ trong đường tiêu hóa và đi qua hệ thống mạch máu não. Những kết quả đó chỉ ra rằng thuốc có thể tác động như một chất ức chế acetylcholinesterase với một block beta độc tính trên thần kinh ở người gây ra tình trạng sa sút trí tuệ người lớn tuổi (Heo và cs., 2004);
Điều trị ung thư thanh quản ở người: nhân một ca bệnh là bệnh nhân mắc ung thư thanh quản, được tiêm và uống viên artesunate trong một thời gian dài 9 tháng. Khối u của anh ta giảm đi một cách đáng kể đến 70% sau 2 tháng điều trị. Bệnh nhân cũng báo cáo rằng anh ta hài lòng với cách điều trị này. Nó thật sự đã kéo dài sự sống cho anh và cải thiện cuộc sống khá nhiều. Một lần nữa, artemisinin đã chứng minh đặc tính tuyệt vời trong việc tiêu diệt tế bào ung thư. (Singh và Vera., 2002).
Một số dữ liệu sinh học về nhóm thuốc Artemisinine
Theo y văn trên thế giới và đặc biệt y văn cổ xưa của y học cổ truyền Trung Hoa đã thống kê hàng trăm nghiên cứu tiền lâm sàng, lâm sàng (in vitro, in vivo và trực tiếp trên con người) được thử nghiệm với thuốc Artemisinine và các dẫn suất trong hơn 3 thập niên qua để điều trị bệnh sốt rét. Gần đây, nhiều nghiên cứu được đăng tải có liên quan đến liệu pháp Artemisinine hoặc dẫn suất áp dụng trong điều trị một số bệnh lý nhiễm trùng và bệnh lý ung thư. Dưới đây là một số tóm tắt liên quan đến các nghiên cứu ung thư như thế.
Hiệu năng ức chế phát triển của các tế bào ung thư:
Một vài công ty dược đã thử nghiệm in vitro với hợp chất artemisinine chống lại các dòng tế bào ung thư ở người được thiết kế bởi Chương trình nghiên cứu các liệu pháp điều trị của Viện ung thư quốc gia (NCIDTP_National Cancer Institute Developmental Therapeutics Program). Trong hầu hết các trường hợp, thuốc hoặc hợp chất Artemisinine đều cho kết quảhiệu năng ức chế tế bào ung thư tương đương hoặc tốt hơn các thuốc chống ung thư được xem là đạt “chuẩn vàng” hiện đang dùng. Bảng dưới đây sẽ cho kết quả về giá trị ức chế phát triển GI50 của các hợp chất Artemisinine và các hóa liệu pháp khác được thử nghiệm trên 70 dòng tế bào ung thư ở người. Một giá trị GI50 là nồng độ của một thuốc có thể ức chế phát triển 50% tế bào ung thư và có giá trị như năng lực ức chế phát triển (GIP_Growth inhibitory power) của một thuốc thử. Giá trị GI50 càng thấp thì năng lực của thuốc càng cao.
Về cơ chế tác động tại sao nhóm thuốc Artemisinine và dẫn suất có thể áp dụng trong điều trị ung thư? Theo y văn thì loại thảo dược Thanh hao hoa vàng (Artemisina annua.) Trung Hoa này đã điều trị sốt rét hàng trăm năm nay nhờ vào cơ chế can thiệp/ hấp dẫn với những tế bào giàu chất sắt ở máu của ký sinh trùng; tương tự như vậy, do các tế bào ung thư phát triển được thì nhu cầu chất sắt cao hơn các tế bào bình thường, Artemisinine gây ra một phản ứng hóa học khi thuốc tiếp xúc với nồng độ sắt cao có mặt trong tế bào và một loạt phản ứng xảy ra có thể làm phá hủy các tế bào ung thư. Đó cũng là lý do tại sao bạn không nên dùng hay bổ sung thành tố sắt như là một “thức ăn” cho các tế bào ung thư khiến chúng lan rộng nhanh hơn. Thử nghiệm như thế cũng được chứng minh trong nhiều loại ung thư khác, đặc biệt ung thư vú, ung thư não và ung thư tiền liệt tuyến.
Dưới đây là một số kết quả về giá trị của GI50 của các loại ung thư: ung thư máu, ung thư phổi, đại tràng, hệ thần kinh, u hắc tố, ung thư buồng trứng, ung thư thận, tiền liệt tuyến và ung thư vú, theo phân loại và quy định thuật ngữ của ngành ung thư học, các nghiên cứu cho kết quả về in vitro vàin vivo như sau:
Dữ liệu thử nghiệm Artemisinine với ung thư trên in vitro
LIỆU PHÁP ĐIỀU TRỊ (Therapy) | LOẠI UNG THƯ (Cancer) | DÒNG TẾ BÀO (Cell lines) |
ART trioxane dimers | Đa ung thư | 60 NCI cancer cell lines |
| Ung thư tuyến tiền liệt | Transgenic adenocarcinoma |
| Ung thư cổ tử cung | HeLa, C33A, HCX-HPV 16 cells |
| Ung thư nguyên bào tủy | DAOY cells |
| Ung thư vú | MCF-7 cells |
ART-Iron chelators | Đa ung thư | 60 NCI cancer cell lines |
| Ung thư nguyên bào tủy | DAOY cells |
| Ung thư máu | Molt-4 cells |
| Ung thư vú | MCF-7 cells |
ART dimer-Iron chelators | Ung thư máu | Molt-4 cells |
ART-Peptides | Ung thư nguyên bào tủy | DAOY cells |
| Ung thư máu | Molt-4 cells |
| U nguyên bào thần kinh | IMR-32 cells |
| Ung thư gan | HepG2 cells, Hepatocytes |
ART-Transferrine | Ung thư máu | Molt-4 cells |
DHA plus Transferrine | Ung thư vú | HTB27, HTB 125 cells |
| Ung thư máu | Molt-4 cells |
| Ung thư nguyên bào tủy | IMR-32 cells |
ART plus Butyrate | Ung thư máu | Molt-4 cells, Lymphocytes |
ART plus Transferrine | Ung thư phổi | H69, H69NP NSCLC cells |
| Ung thư kháng đa thuốc | K562/adr, GLC4/adr Resistant cells |
ART plus Fe(II) Glycine Sulfate | Ung thu não | U373 Astrocytoma |
| Ưng thư máu | CCRF-CEM cells |
| Đa ung thư | 60 NCI cancer cell lines |
Các dẫn suất khác của ART | Ung thư đại trực tràng | Human cancer cells |
| Ung thư phổi | A549, SPC-A-1 cells, PC-14 cells |
| Ung thư máu | P388 cells, CML K562 cells |
| Ung thư cổ tử cung | HPV cervical cells |
| Đa u tủy xương | RPMI 8226 cells |
| Ung thư não | U373 Astrocytoma cells |
| Ung thư vòm hầu | HPV 16, IHGK, YD-108 cells |
Dữ liệu thử nghiệm Artemisinine với ung thư trên in vivo
LIỆU PHÁP ĐIỀU TRỊ (Therapy) | LOẠI UNG THƯ (Cancer) | MÔ HÌNH BỆNH (Model) |
ART trioxane dimers | Ung thư vú | Mô hình MTLn3 trên chuột |
| Ung thư não | Nghiên cứu độc tính trên chuột |
| Ung thư não | Intracranial Glioma Xenograft ở chuột |
ART-Peptides | Ung thư vú | Mô hình MTLn3 trên chuột |
Artemisinine | Phòng bệnh ung thư vú | DMBA-induced Breast cancer ở chuột |
| Ung thư buồng trứng | HO-8910 cells in nude mice |
DHA plus Ferrous sulfate | Ung thư nguyên bào sợi | Fibrosarcoma in rats |
DHA | Ung thư cổ tử cung | Oral HPV ở chó |
Artesunate | Ung thư đại trực tràng | Colorectal tumor xenografts |
| Kaposi’s sarcoma | KS-IMM Xenograft tumors |
Nghiên cứu trên người về ung thư
LIỆU PHÁP ĐIỀU TRỊ (Therapy) | LOẠI UNG THƯ (Cancer) | BÁO CÁO CA BỆNH (Case report) |
Artemether | Pitutary cancer | Pitutary human |
| | Macroadenoma |
Artesunate | Ung thư hầu họng | Laryngeal Squamous cell carcinoma |
| Melanoma | Uveal metastasis melanoma |
| NSCLC | Phối hợp Vinorelbine + Cisplatin |