A. BỆNH THỦY ĐẬU
Giới thiệu
Bệnh thủy đậu (phỏng rạ, trái rạ) là một bệnh do vius Varicella zoster gây nên. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, cả hai giới, ngừơi lớn tuổi, suy giảm sức đề kháng hoặc miễn dịch hay gặp hơn (ung thư, HIV/AIDS, sử dụng corticoides kéo dài, ung thư bạch cầu, suy hô hấp, viêm phổi nặng, lao,…) thì diễn tiến bệnh nặng nề hơn và biến chứng xuất hiện nguy hiểm. Tỷ lệ mắc bệnh khoảng 1.3-4.8/ 100.000 dân/ năm. Thủy đậu thường bùng phát thành dịch vào mùa xuân và dễ lây lan, nhất là nơi tập trung đông người (ví dụ công sở, trường học, nhà trẻ, công nhân, khu ký túc xá,…). Bệnh thủy đậu cũng như sởi, diễn biến tương đối nhẹ và lành tính, nếu biết chăm sóc và chế độ ăn uống hợp lý, bệnh sẽ thuyên giảm nhanh chóng.
Biểu hiện bệnh và biến chứng
Dịch ở mụn nước ngoài da có chứa mầm bệnh. Do đó, nên tránh tiếp xúc trực tiếp để tránh lây, phòng bội nhiễm, khi tiếp xúc các giọt nước bọt bắn trong không khí có chứa virus gây bệnh thủy đậu sẽ dễ dàng lây sang người lành, nhất là trẻ nhỏ có sức đề kháng yếu. Bệnhthường không có triệu chứng trong 2 tuần đầu, nhưng 2-4 ngày trước khi phát ra nốt rạ, bệnh đã có khả năng lây nhiễm sang người khác. Ngay cả khi thủy đậu đã phát bóng nước được 6 ngày, virus gây bệnh vẫn có thể lây lan cho người lành.
Bệnh biểu hiện với một thương tổn da cấp tính có mụn nước, mụn mủ, bọng nước. Thường khi đó dễ nhầm lẫn với một số thương tổn da do bệnh lý khác (viêm da tiếp xúc, bệnh da do côn trùng, ký sinh trùng, hội chứng ấu trùng di chuyển), nên phải phân định bệnh khác nhau. Đặc trưng của bệnh là ngứa, phát ban ngoài da, ban sẩn có mụn nước kèm theo có thể sốt hoặc không sốt. Người bệnh thường có dấu hiệu ban đầu là sốt nhẹ, mệt mỏi, biếng ăn, đau cơ; sau đó các nốt rạ xuất hiện ở da đầu, mặt, lan xuống theo thân người, tay chân. Đã có người bệnh có cả hàng ngàn nốt, gây ngứa, đau nhức, khó chịu và có thể bội nhiễm vi khuẩn mau chóng. Cảm giác đau rát, bỏng, hoặc cảm giác kim châm dọc theo vạt da vùng chi phối của dây thần kinh bị tổn thương. Khoảng 2-3 ngày sau xuất hiện vệt đỏ lan tỏa dọc theo vùng da bị đau rát, đồng thời mụn nước xuất hiện kèm theo ngứa, sau đó vỡ ra, biến mất rồi để lại sẹo mờ sau 2-3 tuần. Vị trí tổn thương thường gặp gặp chủ yếu ở ngực hay ở lưng, mông, gáy, da đầu, chân tay,…
Khác với sởi, thủy đậu biểu hiện là nổi các mụn nước, rồi đóng vảy, bong vảy, không để lại sẹo như đậu mùa (nếu không bội nhiễm). Do vậy, không nên để nhiễm khuẩn các bọng nước do thủy đậu. Đối với độ tuổi của trẻ mắc thủy đậu thường lớn hơn, hiếu động hơn nên khó quản lý, cần thiết hạn chế trẻ ra môi trường bên ngoài (gió, bụi, bẩn).
Bệnh thủy đậu có thể truyền từ mẹ sang con nếu mẹ bị bệnh lúc mang thai. Nhiễm bệnh trong 3 tháng đầu của thời kỳ mang thai có thể liên quan đến dị tật bẩm sinh (dị dạng não bộ, viêm da lở loét bẩm sinh) cho trẻ. Kết quả theo dõi cho thấy có tới 25% thai nhi bị ảnh hưởng nếu mẹ mắc bệnh thủy đậu trong thời kỳ đầu của thai kỳ. Điều nguy hiểm là nếu phụ nữ mang thai mắc bệnh thủy đậu trong vòng 1 tuần trước và sau khi sinh, có tới 30% trẻ em sinh ra có thể bị tử vong.
Nếu không có thái độ xử trí kịp thời thì cả hai bệnh do virus đó đều có thể dẫn đến biến chứng hô hấp, tiêu hóa, thần kinh,...ảnh hưởng đến sức khỏe trẻ. Với trẻ suy dinh dưỡng, còi xương hay bị chàm hoặcbệnh về máu khi có mắc thủy đậu, bệnh thường diễn tiến nặng, nốt phỏng hay bị loét, hoại tử, có chứa chất nhầy màu xám, đôi khi gây viêm thận cấp, viêm tai giữa, viêm phổi, viêm và loét giác mạc, viêm tủy thoáng qua, viêm màng não vô khuẩn,... Nếu chăm sóc vệ sinh không tốt, nốt phỏng có thể bội nhiễm gây nhiễm khuẩn da nặng hoặc nhiễm trùng huyết do các vi khuẩn đa kháng thuốc trong bệnh viện hoặc môi trường xung quanh như trực khuẩn mủ xanh, tụ cầu vàng,…
Biến chứng có thể viêm não, viêm màng não, viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết,…dẫn đến tử vong cũng có thể xảy ra. Nếu tổn thương dây thần kinh sọ não sẽ gây mù mắt, liệt mặt, mất vị giác do tổn thương vào dây thần kinh số VII, viêm não khi có tổn thương não. Nếu phụ nữ mang thai mắc bệnh, có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Qua nhiều năm, thống kê cho thấy biến chứng phổ biến nhất ở trẻ em là nhiễm trùng da hoặc phần mềm có thể để lại sẹo vĩnh viễn trên da.
Chẩn đoán phân biệt
Tổn thương da dạng mụn nước có thể xuất hiện dưới các dạng khác nhau đôi khi không điển hình hoặc điển hình, song nếu đã bội nhiễm thì hình thái tổn thương cũng bị thay đổi, biến dạng khiến cho chúng ta dễ nhầm lẫn với một số bệnh da khác, trong đó hai bệnh thường được các thầy thuốc lâm sàng khuyên thường chẩn đoán phân biệt với:
-Viêm da tiếp xúc do côn trùng: thường phát bệnh sau khi da tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp từ một loại côn trùng, chẳng hạn bỏng do phấn có chứa phospho từ bướm 2 chấm hoặc sâu đục thân. Tổn thương da là các đám đỏ phù nề, có mụn nước, mụn mủ phía trên, đôi khi là dịch tiết chảy nước. Tổn thương có khi là một vệt dài nhìngiống vết cào xước. Vết tổn thương có nền da sưng phù, ở giữa là các mụn mủ chi chít, xung quanh là quầng đỏ, nổi gồ lên cao hơn mặt da. Tổn thương da có thể chỉ một đám hoặc nhiều đám, thường khu trú vùng da hở như mặt, tay chân và cả hai bên thân thể. Bệnh nhân bị rát ở bề mặt da, đôi khi đau nếu có mủ nhiều, kèm ngứa, bệnh nhân không bị nhức buốt dưới da, không có cảm giác châm chích. Sử dụng kháng sinh bôi hoặc thoa sẽ giảm và hồi phục hoàn toàn.
-Zona: biểu hiện tổn thương rất nhanh, nếu tính thời gian trong cả cuộc đời thì tỷ lệ bệnh có thể lên đến 20% dân số. Bệnh có thể xuất hiện ở bất cứ lứa tuổi nào nhưng tuổi càng cao thì tỷ lệ bệnh càng tăng, trẻ em cũng hay mắc bệnh zona, đa số bệnh nhân zona có tiền sử mắc bệnh thủy đậu từ bé, virus gây bệnh thủy đậu cùng loài với gây bệnh zona. Sau khi bệnh đã khỏi thì một số virus gây bệnh vẫn còn ở trạng thái tiềm ẩn không gây bệnh, nằm ở hạch thần kinh cảm giác và gây bệnh khi có điều kiện cơ thể suy yếu. Lúc đầu bệnh nhân thường bị đau và rát ở một vùng da. Cảm giác đau nhói tồn tại khoảng 1-3 ngày, sau đó nổi lên các mụn nước tập trung thành từng đám. Nếu không điều trị kịp thời sẽ tiến triển thành bọng nước; lúc đầu tổn thương chỉ là các đám nhỏ, phân bố rải rác thành một dải nếu không điều trị thì các mảng nhỏ này lan rộng ra và liên kếtvới nhau thành một mảng lớn, khu trú toàn bộ một vạt da theo một bên cơ thể: cả một vùng ngực hoặc một vùng mạng sườn...Thường thì các bọng nước chứa dịch trong, nhưng nếu có bội nhiễm kèm theo sẽ có mủ màu đục và bệnh nhân đôi lúc gây sốt nhẹ.
Điều trị và phòng bệnh
Điều quan trọng khi chăm sóc bệnh nhân thủy đậu là phải giữ vệ sinh, tránh ủ kín, theo dõi thường xuyên để phát hiện sớm các dấu hiệu nghi ngờ, sốt cao, mụn nước đỏ xung quanh hoặc có mủ. Tuyệt đối không cho trẻ ăn kiêng, phải cho ăn đủ chất, giữ sạch vết thương và cho trẻ ở nơi kín gió nhưng tránh làm vỡ nốt phỏng. Nếu thể nhẹ, bệnh nhân sẽ được chỉ định bôi dung dịch xanh methylen hoặc. Nếu thể nặng, phải dùng thuốc đặc hiệu để diệt virus theo chỉ định của bác sĩ.
Điều trị thủy đậu
-Thuốc giảm đau: Efferalgan codein (paracetamol + codein) 500mg x 3-4 lần/ ngày, có tác dụng giảm đau; hoặc giảm đau chống viêm non-steroides như Aspirin 1.000mg x 2 lần/ ngày, uống sau khi ăn no (chống chỉ định trong bệnh nhân loét dạ dày tá tràng và dị ứng với thành phần của thuốc);
-Prednisolon: liều 1mg/kg/ ngày x 3 ngày đầu, sau đó giảm dần (giảm 10mg mỗi 3 ngày) rồi dừng, thường dùng trong 15 ngày;
-Thuốc kháng virus (Acyclovir, Famyclovir) viên nén 200mg, 400mg, 800mg. Liều 800mg x 5 lần / ngày, mỗi lần cách nhau 4 giờ. Thời gian điều trị từ 5-7 ngày. Thuốc được dùng ngay khi bệnh mới biểu hiện rõ và mụn nước xuất hiện. Thuốc có tác dụng làm giảm cường độ và thời gian đau sau zona, điều trị càng sớm thì hiệu quả càng cao;
-Thuốc bôi tại chỗ: trong thời gian mụn nước xuất hiện, vệ sinh nơi tổn thương sạch sẽ rồi thoa, mặc quần áo thoáng mát tránh trầy vết phỏng rạ. Khi mụn nước vỡ, có thể chấm bằng xanh methylen.
-Thuốc kháng histamine: có tác dụng làm giảm ngứa tại chỗ và an thần nhẹ.
-Nên dùng kháng sinh không? Tùy thuộc vào quyết định của thầy thuốc chuyên khoa. Khi mắc thủy đậu, bệnh nhân nhất thiết phải được cách ly từ 7-10 ngày để tránh lây cho người xung quanh. Thuốc bôi, đắp: nốt đậu to, phòng dễ vỡ, dùng thuốc xanh methylen bôi.
Về điều trị zona
Điều trị zona nếu muộn hoặc không đủ liều thuốc sẽ để lại biến chứng. Thời gian trị liệu cho kết quả tốt nhất là trước 48 giờ sau khi có tổn thương da. Nếu để muộn, kết quả điều trị kém và có thể để lại các di chứng: đau kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, thậm chí có những người đau đến cuối cuộc đời, nhất là người cao tuổi. Nếu tổn thương zona gây tổn thương dây thần kinh số V (trong zona mắt) thì có thể gây giảm hoặc mất thị lực hoàn toàn. Nếu zona gây tổn thương dây thần kinh số VII (hội chứng Ramsay Hunt) có thể gây liệt mặt, méo miệng. Các biến chứng khác có thể gặp như lâu liền sẹo, sẹo lồi, sẹo lõm, vết trắng hoặc vết thâm do rối loạn sắc tố sau viêm.
Nếu tại chỗ tổn thương còn mụn nước, tiết dịch nhiều thì không nên bôi các loại thuốc mỡ, ứ đọng dịch tiết phù nề. Nên bôi các dung dịch như Jarisk, Dalibour, dung dịch kháng sinh, xanh methylene, Castelani,… sau 5-7 ngày tổn thương da khô hơn thì khi đó có thể bắt đầu bôi kem Acyclovir ngày 3 - 5 lần, tuyệt đối không được gãi hoặc cạo ra trước khi bôi thuốc. Bắt buộc phải uống đủ liều kháng sinh chống nhiễm khuẩn dưới sự theo dõi chặt chẽ của bác sĩ chuyên khoa da liễu. Kháng virus là Acyclovir uống 5 lần trong một ngày, cách 3 giờ uống một lần. Thời gian uống thuốc là 7 - 8 ngày liên tục trong một đợt. Thuốc có tác dụng phụ nôn, hoặc tiêu chảy trong 3 - 4% trường hợp, khi có tác dụng phụ như thế bệnh nhân đến khám lại ngay. Thuốc Acyclovir không nên dùng cho bệnh nhân suy thận, trong các trường hợp như thế có thế sử dụng điện châm cũng đạt được kết quả.
Nếu bệnh nhân đau, dùng thuốc giảm đau, chiếu tia laser Helinion tại chỗ để tổn thương da chóng lành và góp phần hồi phục tổn thương dây thần kinh. Trong giai đoạn bệnh đang tiến triển có thể tiêm gamma globuline 16%, 2ml/1 ống tiêm bắp, cứ 4 - 7 ngày tiêm 1 ống x 5 - 6 ống cho một đợt tiêm để hỗ trợ tăng cường miễn dịch, cũng mang lại kết quả tốt cho một số bệnh nhân tuổi cao, sức đề kháng kém. Các bệnh nhân đau rát nhiều và sự giảm đau rất ít sau khi dùng kháng sinh hoặc Acyclovir thì có thể uống thêm các thuốc giảm đau thần kinh như: Gabapenti, Carbamazepine, Amitryptiline nhưng phải có chỉ định và theo dõi của bác sĩ chuyên khoa da liễu. Bệnh zona thường không tái phát, không lây trực tiếp cho người khác, không gây tổn thương các phủ tạng và não.
Nếu xuất hiện đau rát và những mụn nước trên da, cần đưa bệnh nhân đến bác sĩ chuyên khoa Trong trường hợp có zona mắt, nên nhận tư vấn thêm từ các bác sĩ chuyên khoa mắt để tránh nguy cơ mù mắt. Việc điều trị thường gồm 2 giai đoạn: giai đoạn cấp và giai đoạn sau zona;
Điều trị hậu zona
Amitripyilin viên nén 25mg, liều dùng từ 25-75mg/ngày chia 2 lần. Lúc đầu dùng liều thấp sau tăng dần. Thuốc có tác dụng tốt trong trường hợp đau rát bỏng. Tác dụng phụ có thể hạ huyết áp tư thế, ngủ gà, khô miệng, lú lẫn, táo bón, bí tiểu, tăng cân. Chống chỉ định trong trường hợp glaucom góc đóng, u tuyến tiền liệt, loạn nhịp tim, rối loạn dẫn truyền, động kinh. Trong trường hợp đau từng cơn, đau như dao đâm, đau nhói hoặc co cơ hay máy cơ…có thể dùng các thuốc sau với liều thấp, sau đó tăng dần liều đến liều đạt tác dụng:
-Carbamazepine (Tegretol) viên nén 200mg, liều lượng từ 400 - 1.200mg/ngày. Tác dụng không mong muốn là chóng mặt, buông nôn lúc bắt đầu điều trị (hạn chế bằng cách tăng dần liều); hội chứng tiền đình tiểu não hoặc lú lẫn do quá liều; giảm nhẹ bạch cầu trung tính; rối loạn dẫn truyền tim; phản ứng đặc ứng (nhiễm độc da, viêm gan, giảm thiểu tủy xương). Chống chỉ định block nhĩ thất nhịp tim chậm.
-Clorazepam (Rivotril) viên nén 2mg, liều 1-4mg/ngày. tác dụng không mong muốn là ngủ gà, giảm trí nhớ người già.
-Gabapentin (Neurontine): viên nén 300mg, liều từ 900 - 2.000mg/ngày. Tác dụng không mong muốn là ngủ gà, nhức đầu, chóng mặt, buồn nôn, đi loạng choạng, run. Chống chỉ định trong trường hợp có thai hoặc đang cho con bú.
Về chăm sóc da tại chỗ
Khi có biểu hiện tổn thơng cần phải tuân thủ nguyên tắc sau: tuyệt đối không cào, gãi, xát chanh, xát muối, đắp đậu xanh, gạo nếp. Vì nếu làm như vậy, sẽ làm cho tổn thương sâu hơn, lan rộng hơn và đặc biệt gây nhiễm trùng, loét và việc điều trị trở nên khó khăn hơn. Bệnh nhân vẫn có thể tắm rửa hàng ngày nhưng không được xát xà phòng trực tiếp lên vùng da bệnh, cần kiêng uống rượu bia và thức ăn nhiều gia vị cay, nóng.
Về ăn uống
Chọn một trong số các bài thuốc sau đây cho thích hợp khẩu vị của trẻ:
-Nước thân cây rạ: thân cây rạ bỏ lá rơm ngoài 15g. Nấu lấy nước cho trẻ uống thay nước đun sôi để nguội hàng ngày Hoặc nước củ năng, bồ công anh - 2 vị lượng bằng nhau 15g, nấu nước uống có thể thêm đường.
-Nước đậu xanh:đậu xanh 100g nấu với 500ml nước, uống thay nước hàng ngày trong suốt thời gian bệnh, có thể thêm ít đường phèn hoặc đường đỏ, hoặc nấu cháo đậu xanh loãng, có thể dùng các loại đậu khác như đậu đen, đậu đỏ, đậu trắng.
-Cháo rễ lau: rễ lau tươi 10-20 g, gạo 50 g, hai loại nấu cùng rồi cho trẻ ăn; cháo lá sen: lá sen tươi 100 g, gạo 100 g, nấu lá sen và lấy nước nấu cháo, thêm ít đường phèn hoặc đường đỏ; cháo lá tre: lá tre tươi 30 g, gáo 100 g. Nấu lá tre khoảng 20 phút rồi lấy nước nấu cháo.
-Cháo ý dĩ (hạt bo bo): hạt bo bo 30 g, nấu cháo với 60 g gạo. Ngày ăn 2 lần trong vài ngày; cháo rễ lau (sinh địa): rễ lau 20 g, sinh địa 10 g, thạch cao 10 g, gạo 100 g, nấu thuốc trước rồi lấy nước nấu cháo nhừ.
-Cháo phục linh: phục linh 15g, hoa mai vàng 15 g, gạo tẻ 50 g. Nấu kỹ phục linh với hoa mai vàng, lấy nước để nấu cháo, ăn nóng; cháo bách hợp: bách hợp 10 g, đậu đỏ 20 g, hanh nhân 6 g (bóc vỏ bỏ mầm), gạo 30 g, nấu cùng cho nhừ, dùng vào thời kỳ khỏi bệnh.
Nước để tắm
Dùng một trong các thứ lá sau để tắm lá cây tầm bóp leo, cỏ chân vịt, lá hòa vò lấy nước cốt rồi thêm nước đun sôi để âm ấm hoặc nấu lấy nước, lá khổ qua, lá bạch đàn, lá trầu. Tắm ngày một lần, nước còn ấm và tắm nơi kín gió, hạn chế làm vỡ nốt đậu. Chú ý, thông thường cảm giác đau sẽ giảm dần sau một tháng (60%), nhưng có trường hợp đau zona kéo dài nhiều tháng thậm chí vài năm sau khi khỏi mụn nước
Về phòng bệnh
Khi trẻ bị bệnh cần điều trị sớm trong vòng 24 giờ sau khi nổi các nốt phỏng. Khi trẻ bị thủy đậu nên cách ly trẻ với người lành, tốt nhất là cho trẻ nghỉ học, ở nhà để tránh lây lan sang các trẻ em khác. Tất cả đồ dùng cá nhân của bệnh nhân đều dùng riêng (chén, bát, đũa, khăn lau, quần, áo, dụng cụ học tập). Hiện nay, biện pháp hữu hiệu là tiêm phòng vaccine.
Trẻ từ 12 tháng tuổi đến 12 tuổi tiêm 1 liều duy nhất;
Trẻ từ 13 tuổi trở lên và người lớn cần tiêm 2 liều, liều 2 cách liều đầu khoảng 4 - 6 tuần.
B. BỆNH CHỐC
Giới thiệu
Chốc lây do một loại vi khuẩn là liên cầu khuẩn gây nên, trẻ em hay bị hơn người lớn. Bệnh thường bắt đầu ở cổ, mặt, các chi, từ đó lan ra các chỗ khác. Bệnh rất dễ lây nên còn gọi là chốc lây. Chốc lở là da bị nhiễm vi trùng, chứng chốc da có thể phát sinh khi một chứng ban như chàm, eczema hay bọng rộp da bị nhiễm trùng, tuy đôi khi da lành mạnh có thể bị nhiễm trùng thành chốc lở. Chốc lở thường lan rộng tới da quanh miệng và mũi hoặc có thể xuất hiện bất cứ nơi nào trên cơ thể. Chốc lở không phải là một chứng bệnh trẻ em nghiêm trọng những ở một em bé, nhưng có thể lan rộng ra một vùng da lớn và có thể xuất hiện các biến chứng nguy hiểm, nên cần được điều trị sớm.
Biểu hiện và các biến chứng của bệnh
Là những tổn thương da ở vùng cổ, mặt và các chi, sau đó lan ra những chỗ khác. Chốc rất dễ lây và có thể thành dịch. Chốc lây thường bắt đầu bằng một phỏng nước nhỏ, đỏ giống ban, lùng nhùng, hình tròn, xung quanh có quầng viêm đỏ. Nước ban đầu trong, dần dần thành mủ đục. Giai đoạn phỏng nước và phỏng mủ rất ngắn. Chẳng bao lâu phỏng mủ vỡ, đóng vảy vàng sẫm/ nâu dễ bóc. Dưới lớp vảy là một vết trợt đỏ, nông, không cộm. Ở trẻ em, chốc vùng đầu làm thành từng đám vảy vàng sẫm, dính bết tóc. Dưới lớp vảy, da trợt đỏ rớm nước.
Chốc rải rác toàn thân có thể kèm theo sốt. Chốc thường gây hạch sưng ở vùng tương xứng.
Bệnh có thể gây biến chứng viêm cầu thận cấp, đặc biệt là ở trẻ em (phù mi mắt, cẳng chân, bàn chân, tiểu ít, nước tiểu có protein niệu, hồng cầu niệu). Ghẻ và eczema trẻ em dễ kèm theo chốc đầu.
Điều trị và phòng bệnh
Nếu chốc có nhiều vảy, có thể điều trị bằng cách đắp gạc tẩm nước thuốc tím pha loãng 0.4% cho bong hết vảy, sau đó bôi thuốc màu (xanh metylen 1%, hoặc tím metyl 1%). Nếu các phỏng mủ chưa vỡ, dùng kim vô trùng chọc mủ ra, cho mủ thấm vào bông, không để chảy lan ra vùng da lân cận. Sau đó cũng chấm thuốc màu.
Nên dùng kháng sinh toàn thân càng sớm càng tốt để tránh biến chứng viêm cầu thận cấp.
Phòng bệnh là không dùng chung khăn mặt, chậu rửa mặt với người bị chốc lây, nhất là trẻ em:
-Giữ khăn mặt, khăn tắm của trẻ cách ly hẳn với khăn của người khác trong gia đình;
-Thường xuyên giặt khăn để ngăn chặn lây lan;
-Cố gắng không để trẻ sờ vào chỗ bị chốc;
-Không để trẻ mút ngón cái hay ngoáy mũi vì dễ lây lan đến mũi và miệng;
-Cách ly những trẻ khác, nhất là trẻ em nhỏ cho đến khi cháu khỏe.
Tài liệu tham khảo
1.Hoa Tấn Dũng (2007). Bệnh chốc (Impetigo). http://www.quyhoandh.org.vn
2.Trần Đăng Quyết (2004).Chốc lây - bệnh hay gặp ở trẻ em. Sức Khỏe & Đời Sống.
3.Thanh Huy (2008). Bệnh chốc. http://www.giaoducsuckhoe.net
4.Cẩm Nang Chăm sóc bà mẹ và trẻ em (2007). Chốc lở. (www.chamsocbe.com/HealthCare)
5.Bạch Thông (2009). Bệnh thủy đậu: Những điều cần biết. http://suckhoedoisong.vn
6.Bùi Mạnh Hà (2003). Bệnh thuỷ đậu và cách xử trí. http://vietnamnet.vn/suckhoe/bacsitaigia
7.Hình ảnh minh họa tham khảo và trích từ interrnet