Thuốc sốt rét chloroquine có lẽ chẳng còn xa lạ với chúng ta, bởi lẽ chúng là một trong những thuốc rẻ tiền, hiệu lực cao để điều trị sốt rét, đặc biệt đối với những ca sốt rét do Plasmodium vivax thì lựa chọn số một hiện nay là chloroquine, song loại sốt rét do P.vivax này thường tái phát nhiều lần khiến bệnh nhân dùng thuốc liên tục. Mặt khác, những đối tượng đi rừng, ngủ rẫy, hoặckhai thác lâm thổ sản thường vào rừng có điều trị dự phòng bằng thuốc này nếu thời gian họ ở càng lâu thì dùng thuốc càng nhiều, thậm chí trong nhiều năm. Gần đây, các công trình nghiên cứu cho biết thuốc chloroquine và hydroxychloroquine có khả năng: ngoài sốt rét còn có thể điều trị một số bệnh lý tự miễn như viêm khớp dạng thấp, Lupus ban đỏ rải rác, …với liều cao và kéo dài. Chính vì lẽ đó, các bệnh nhân có thể tự mua thuốc theo toa hoặc không theo toa bác sĩ để tự điều trị cho mình. Do dùng thuốc liều cao và liệu trình dài ngày, nhiều đợt sẽ khó tránh khỏi một số tác dụng phụ cấp tính, mạn tính và thậm chí nghiêm trọng. Dưới đây, chúng tôi muốn giới thiệu một số thông tin về tác dụng phụ đó nhằm giúp cho việc sử dụng thuốc hợp lý hơn:
Một số tác tác dụng phụ lên các giác quan:
Thị giác(Ocular): tổn thương võng mạc không hồi phục ở những bệnh nhân dùng liệu pháp 4-aminoquinoline liều cao và dài ngày, rối loạn thị lực (nhìn mờ và khó tập trung hoặc rối loạn điều tiết mắt; dạ thị (nyctalopia); ám điểm (scotomatous vision) với khuyết tật ở thị trường vòng ở ngoài trung tâm và ám điểm thái dương điển hình; chẳng hạn, khó đọc những từ có xu hướng tự mất đi, nhìn thấy chỉ một nửa vật thể, nhìn thấy đám mây mờ lởn vỏn trước mắt.
Thính giác (Auditory): điếc do thần kinh, ù tai (tinnitus), giảm sức nghe ở những bệnh nhân tổn thương thính giác có sẵn.
Hệ cơ xương (Musculoskeletal system): bệnh lý hệ cơ xương hoặc thần kinh cơ dẫn đến yếu hoặc phì dại tiến triển các nhóm cơ đối xứng; điều này có liên quan đến thay đổi ý thức nhẹ, yếu phản xạ gân cơ và thần kinh cơ bình thường hoặc rối loạn nhẹ.
Hệ tiêu hóa (Gastrointestinal system): chán ăn, buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy và đau bụng co thắt.
Da và phần phụ (Skin and appendages): ban đa hình trên da, thay đổi các hạt sắc tố trên da và niêm mạc; phát ban dạng liken phẳng, ngứa, sưng phồng, dộp, nhạy cảm với ánh sáng và rụng tóc hoặc trắng tóc. Viêm họng hoặc sốt, dễ chảy máu
Hệ huyết học (Hematologic system): tác dụng phụ trên huyết học hiếm khi xảy ra, nếu có thì có thể là thiếu máu bất sản (aplastic anemia), mất bạch cầu hạt có thể phục hồi, giảm tiểu cầu và giảm bạch cầu trung tính.
Hệ thần kinh trung ương (Central Nervous system): động kinh, con co giật, nhức đầu nhẹ hoặc thoáng qua. Thay đổi tâm thần kinh bao gồm: loạn thần, mê sảng, thay đổi hành vi và trầm cảm.
Hệ tim mạch (Cardiovascular system): hiếm gặp, đôi khi thay đổi điện tâm đồ, hạ huyết áp (đặc biệt, sóng T đảo ngược và phức hợp QRSdãn rộng), hoặc nặng hơn là bệnh lý cơ tim.
Một số triệu chứng có thể là tác dụng phụ có liên quan đến dùng thuốc Avloclor bao gồm:
·Rối loạn tiêu hóa như tiêu chảy, buồn nôn, nôn mửa và đau bụng co thắt;
·Đau đầu;
·Phát ban ở da, ngứa;
·Hạ huyết áp, rối loạn thị lực;
·Rụng tóc hoặc thay đổi màu sắc tóc;
·Co giật;
·Rối loạn một số thông số tế bào máu nếu sử dụng thời gian dài;
·Tổn thương võng mạc mắt nếu dùng dài ngày và liều cao;
·Rố loạn sắc tố da, móng hoặc niêm mạc, có thể niêm mạc miệng;
Một số tác dụng phụ có thể liên quan đến Paludrine gồm có:
·Rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, nôn mửa, táo bón, tiêu chảy và đau bụng;
·Loét miệng;
·Viêm tế bào hoặc niêm mạc miệng, viêm dạ dày;
·Rụng tóc có thể hồi phục
·Phát ban đỏ ở da.
Bệnh lý điểm vàng hay triệu chứng mắt bò (Bull's-Eye Maculopathy)
Khi bạn nhìn vào vùng võng mạch phì đại (là vùng nhạt màu xung quanh „mắt bò” ở vùng xung quanh hố mắt. Hiện tượng này gây ra do dùng chloroquine phosphate (tên thương mại Aralen), được dùng dự phòng và điều trị sốt rét khá lâu. Thuốc này có độc tính trên tế bào biểu mô sắc tố võng mạc mắt (retinal pigment epithelium). Các tác động của thuốc có thể là rất lớn và thậm chí không hồi phục được một khi tổn thương đáy mắt xuất hiện..
Tần suất có bệnh lý điểm vàng như trên sau khi dùng chloroquineđiều trị là chưa có số liệu cụ thể nhưng dường như đủ cao để đảm bảo rằng nếu bệnh nhân dùng lâu dài, đặc biệt dùng liều cao thì nên sàng lọc trước và sau dùng mỗi 3 tháng. Các bênh nhân cũng nên thận trọng dùng thuốc chloroquine trong khi điều trị mà có bệnh mắt đồng thời.
Hydroxychloroquine sulfate (tên thương mại Plaquenil), được sử dụng điều trị lupus ban đỏ hệ thốngvà viêm khớp dạng thấp cũng cần lưu ý đến độc tính trên cơ quan thị giác nhưngtần suất tổn thương rất thấp khi dùng liều điều trị bình thường (200mg/ ngày).