Khi mắc sốt rét ác tính cũng như một số loại bệnh nặng khác, nếu không được phát hiện, chữa trị kịp thời, người bệnh sẽ đi vào hôn mê và rất dễ có nguy cơ bị tử vong. Việc chăm sóc người bệnh bị hôn mê, ngoài sự tận tâm, tích cực của y tá điều dưỡng ở bệnh viện, cũng cần có sự giúp đỡ, hỗ trợ nhiệt tình của người nhà bệnh nhân mới đem lại hiệu quả tốt.
Xác định người bệnh hôn mê
Trước khi người bệnh bị hôn mê, thường có biểu hiện triệu chứng rối loạn ý thức. Hiện nay, để đánh giá tình trạng rối loạn ý thức và hôn mê, đã căn cứ vào thang điểm Glasgow áp dụng đối với người lớn và thang điểm Blantyre áp dụng đối với trẻ em. Tình trạng rối loạn ý thức được xác định ở người lớn khi các dấu hiệu lâm sàng của thang điểm Glasgow dưới 15 điểm; đối với trẻ em khi các dấu hiệu lâm sàng của thang điểm Blantyre dưới 5 điểm. Tình trạng hôn mê được xác định khi các dấu hiệu lâm sàng của điểm Glasgow £ 10 điểm đối với người lớn và điểm Blantyre £ 3 điểm đối với trẻ em.
Xác định điểm Glasgow đối với người lớn căn cứ vào các dấu hiệu lâm sàng được khảo sát như sự mở mắt, sự vận động và lời nói của người bệnh. Mỗi dấu hiệu lâm sàng có các mức độ khác nhau, tùy theo mức độ ghi nhận khi khảo sát để cho số điểm tương ứng. Điểm tối đa của sự mở mắt là 3 điểm. Điểm tối đa của sự vận động là 6 điểm. Điểm tối đa của lời nói là 5 điểm. Tổng số điểm tối đa của 3 dấu hiệu lâm sàng này là 15 điểm.
Tương tự như vậy, xác định điểm Blantyre đối với trẻ em căn cứ vào các dấu hiệu lâm sàng được khảo sát như sự cử động của mắt, sự đáp ứng vận động và sự đáp ứng lời nói. Mỗi dấu hiệu lâm sàng có các mức độ khác nhau, tùy theo mức độ ghi nhận khi khảo sát để cho số điểm tương ứng. Điểm tối đa của cử động mắt là 1 điểm. Điểm tối đa của sự đáp ứng vận động là 2 điểm. Điểm tối đa của sự đáp ứng lời nói là 2 điểm. Tổng số điểm tối đa của cả 3 dấu hiệu lâm sàng này là 5 điểm.
Sau khi khám bệnh, dựa vào điểm Glasgow đối với người lớn và điểm Blantyre đối với trẻ em để xác định người bệnh bị rối loạn ý thức hay đã đi vào hôn mê. Trong trường hợp bệnh nhân bị sốt rét ác tính, xét nghiệm dịch não tủy ghi nhận các chỉ số đều bình thường. Nếu gặp những trường hợp hôn mê do các bệnh khác gây viêm não, màng não thì dịch não sẽ có thay đổi. Khi người bệnh bị hôn mê, cần có chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng đặc biệt để hạn chế những biến chứng trầm trọng khác có thể xảy ra.
Thang điểm Glasgow người lớn và Blantyre trẻ em
Đối với người lớn, thang điểm Glasgow quy định có 3 dấu hiệu lâm sàng chính cần khảo sát để xác định, cho điểm là dấu hiệu mắt mở, dấu hiệu vận động và dấu hiệu lời nói. Dấu hiệu mắt mở được tính điểm như sau: tự mở mắt 4 điểm, mở mắt khi gọi to 3 điểm, mở mắt khi bị kích thích đau 2 điểm, không đáp ứng mở mắt 1 điểm. Dấu hiệu vận động được tính điểm như sau: đáp ứng theo yêu cầu, lời nói 6 điểm; đáp ứng với kích thích đau chính xác 5 điểm, đáp ứng với kích thích đau không chính xác 4 điểm; người bệnh có tư thế co cứng 3 điểm, người bệnh có tư thế duỗi cứng 2 điểm; người bệnh không đáp ứng vận động 1 điểm. Dấu hiệu lời nói được tính điểm như sau: trả lời đúng, chính xác 5 điểm; trả lời bằng lời nói lú lẫn, sai 4 điểm; trả lời bằng các từ không thích hợp 3 điểm; trả lời bằng những từ vô nghĩa 2 điểm; người bệnh không trả lời gì cả 1 điểm. Điểm tối đa của cả 3 dấu hiệu lâm sàng được khảo sát là 15 điểm.
Đối với trẻ em, thang điểm Blantyre quy định có 3 dấu hiệu lâm sàng chính cần khảo sát để xác định, cho điểm là dấu hiệu cử động mắt, dấu hiệu đáp ứng vận động và dấu hiệu đáp ứng lời nói. Dấu hiệu cử động mắt được tính điểm như sau: mắt mở theo hướng nhìn, như nhìn theo mặt của người mẹ 1 điểm, không nhìn theo 0 điểm. Dấu hiệu đáp ứng vận động được tính điểm như sau: tại chỗ kích thích gây đau 2 điểm, có co chi với kích thích đau 1 điểm; vận động không đặc hiệu hoặc không đáp ứng 0 điểm. Dấu hiệu đáp ứng lời nói được tính điểm như sau: trẻ khóc to bình thường 2 điểm, trẻ khóc yếu, rên rỉ 1 điểm; trẻ không đáp ứng khóc 0 điểm. Điểm tối đa của cả 3 dấu hiệu lâm sàng được khảo sát là 5 điểm
Chăm sóc, nuôi dưỡng người bệnh hôn mê
Đứng trước bệnh nhân bị hôn mê, cần để người bệnh nằm ở nơi sạch sẽ, khô, thoáng mát, tránh gió lùa, xoay trở tư thế từ 2 đến 3 giờ một lần, tránh loét tư thế, tốt nhất là nên để bệnh nhân nằm trên đệm chống loét. Phải theo dõi người bệnh chặt chẽ với các chỉ số tổng quát cần thiết như nhiệt độ, mạch, huyết áp, nhịp thở cứ mỗi 4 giờ một lần, lượng nước tiểu trong 24 giờ. Cần có chế độ dinh dưỡng hợp lý khi người bệnh hôn mê, cho bệnh nhân ăn bảo đảm đủ chất bằng chất ăn lỏng qua ống thông dạ dày.
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng người bệnh bị hôn mê là trách nhiệm tối quan trọng của y tá điều dưỡng; đồng thời cũng là một nhiệm vụ hợp tác không thể thiếu được của người nhà bệnh nhân. Trong chăm sóc người bệnh hôn mê, cần chú ý đến các vấn đề cần thiết về đường thông khí, hô hấp và tuần hoàn.
Đối với đường thông khí, cần làm thông thoáng đường thở, tránh các chất nôn, chất đờm bị ứ đọng ... Tốt nhất cho người bệnh nằm trên mặt phẳng, không kê gối, đặt vị trí đầu nằm nghiêng, tránh được sự trào ngược các chất nôn từ dạ dày. Thay đổi vị trí cứ 2 giờ một lần. Phải đặt sonde dạ dày cho người bệnh ăn, uống để đề phòng sặc dẫn đến viêm phổi. Phòng ngừa không để tụt lưỡi, luôn giữ thông thoáng đường thở như lau hoặc hút chất đờm ứ đọng. Các trường hợp hôn mê có ứ đọng chất đờm, cần phải đặt nội khí quản.
Để giải quyết vấn đề hô hấp, cho người bệnh thở oxygen với các mức độ khác nhau. Khi bệnh nhân khó thở hoặc diễn biến nặng hơn trong quá trình điều trị, phải chuyển ngay đến bệnh viện tuyến trên có điều kiện hồi sức cấp cứu tốt hơn.
Để giải quyết vấn đề tuần hoàn, phải kiểm tra tình trạng mất nước bằng đo huyết áp, mạch, độ đàn hồi của da, áp lực tĩnh mạch cảnh, độ ẩm của lưỡi, số lượng và màu sắc nước tiểu. Nếu thiếu nước phải truyền dịch. Cần kiểm tra thường xuyên lượng dịch truyền để đề phòng thừa nước. Ghi lại chính xác lượng dịch đưa vào và thải ra của bệnh nhân bằng phiếu theo dõi. Lượng nước tiểu bình thường xấp xỉ 1 ml/ phút. Nếu phát hiện dấu hiệu thừa nước, nên ngừng hoặc hạn chế truyền dịch, cho thuốc lợi tiểu bằng đường tĩnh mạch như furosemide.
Khi gặp phải các trường hợp bệnh nặng gây hôn mê, trong đó có tình trạng hôn mê do sốt rét ác tính. Ngoài điều trị bệnh bằng thuốc đặc hiệu theo quy định, việc điều trị các triệu chứng, biến chứng đi kèm theo là vấn đề cần phải được đặc biệt quan tâm. Trong điều trị hỗ trợ, nên chú ý việc chăm sóc, nuôi dưỡng người bệnh để hạn chế các biến chứng trầm trọng có thể xảy ra, góp phần cho công tác chữa bệnh có hiệu quả, đưa bệnh nhân ra khỏi tình trạng nguy kịch, giảm được tỷ lệ tử vong.