Trong thực hành lâm sàng bệnh ký sinh trùng giun sán và đơn bào hàng ngày, đặc biệt làm quen với nhiều bệnh ký sinh trùng có hội chứng ban trườn (Eruption Reactions) hoặc hội chứng ấu trùng di chuyển dưới da (CLM_Cutaneous Larval Migrants) do ấu trùng giun lươn, giun đầu gai, giun đũa chó mèo hàng ngày, chúng ta hay gặp nhiều bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng đa dạng, xét nghiệm giun sán thì dương tính, bạch cầu eosin tăng cao so với trị số bình thường cùng với yếu tố liên quan đến dịch tễ bệnh giun sán hay gặp.
Điều tra tiền sử cũng thật khó để khẳng định rằng đó có phải là bệnh thật sự không hay chỉ là dương tính giả. Tình thế tiến thoái lưỡng nan, đa số thầy thuốc đều chỉ định điều trị liên quan đến giun sán, kết cục bệnh có thuyên giảm ngứa và may đay khi còn thuốc và hết thuốc lại trở về triệu chứng ban đầu. Sau khi hỏi và tìm hiểu về các yếu tố dị nguyên mà bệnh nhân trong thời gian vừa qua có phơi nhiễm như quần áo, thắt lưng, bút nịt, dây chuyền, đồng hồ, mỹ phẩm thảy đổi thời gian gần đây và có đi du lịch sinh thái, tiếp xúc với côn trùng,…đã giúp cho chúng ta thêm một số kinh nghiệm về bệnh lý để chẩn đoán phân biệt và đưa ra phương thức điều trị hiệu quả hơn. Hai trong số các bệnh lý đó mà chúng ta cần chẩn đoán phân biệt là bệnh da do phơi nhiễm với côn trùng và bệnh da do dị ứng hoặc “bất dung nạp” với mỹ phẩm là hay gặp nhất.
Nhân đây, chúng tôi xin giới thiệu như một chia sẻ hai bài biết liên quan đến 2 bệnh lý trên của bác sĩ trưởng khoa da liễu, BV Bạch Mai là BS Ngô Xuân Nguyệt để giúp chẩn đoán phân biệt với bệnh ký sinh trùng, đặc biệt ấu trùng di chuyển do các ấu trùng ngõ cụt ký sinh ở người.
Bệnh da tiếp xúc do côn trùng
Bệnh da tiếp xúc do côn trùng là bệnh thường xuất hiện trong mùa mưa lũ nhiều khi đã trở thành dịch làm người bệnh hoang mang và lo lắng. Căn nguyên và cách lây truyền của bệnh này là do côn trùng, tên khoa học Paederus.
Paederus là một loại côn trùng thuộc họ cánh cứng (Ataphylimidac) có khoảng 1400 đến 20000 giống rất giống nhau thường gặp là P. literalis, P. fuscipes, P.caligatus và Paederus mình dài, thanh 7-10 mm thoạt nhìn như con kiến do đó đồng bào ta hay gọi thành nhiều tên khác nhau: kiến hoang, kiến kim, kiến lác, kiến gạo, cằm cặp, kiến nhốt, kiến cong đít ... Kiến này có 3 đôi chân bụng có đốt trong đó có một đốt màu đỏ, bay và chạy rất nhanh, chúng thường sống ở ven ruộng quanh gốc rạ, ở bãi cỏ, gần vùng nước, ruộng rau, trong những nơi đang xây dựng dở dang..v.v. Trong thân kiến khoang có chất Pederin gây cháy bỏng da giống như chất Căngtadin của sâu ban miêu và chất Phospho ở con giời.
Sau những ngày mưa lũ làm ngập đồng ruộng ,ao hồ. Kiến khoang theo côn trùng, theo ánh đèn bay vào nhà, những người làm việc dưới ánh đèn bị côn trùng rơi vào cổ, mặt , thân mình vô tình giơ tay đập quệt xiết côn trùng và chất Pedirin có trong côn trùng dây vào da. Có khi côn trùng rơi vào bể tắm, bồn tắm hoặc bám vào khăn mặt , quần áo. Người bệnh không chú ý xát phải côn trùng gây thành viêm da bọng nước ( có trường hợp người bệnh giết côn trùng và đưa tay quết lên da và nổi thành bệnh). Theo số liệu TT Da Liễu Hà Nội, từ 1/10 – 26/10/1999 tại phòng khám có 1201 bệnh nhân có viêm da tiếp xúc trên tổng số 5569 bệnh da đến khám, tỷ lệ 21,56%.
Biểu hiện lâm sàng:
Sau khi tiếp xúc với côn trùng bệnh nhân thấy ngứa, rát, nóng bỏng tại chỗ , sau 6-12h xuất hiện các đám vết màu đỏ, hơi nề thành vệt, kích thước từ 1-5cm, rộng 3-4 mm, sau 1-3 ngày xuất hiện các mụn nước trên da đỏ, lấm tấm sau đó xuất hiện bọng nước và bọng mủ.
Theo thống kê :
- 100% biểu hiện bằng vết đỏ, nền cộm và nóng rát tại chỗ;
- 80% có tổn thương ở đầu ,cổ , mặt và nửa trên thân mình;
- 60% có xuất hiện tổn thương vào buổi sáng;
- 3,82% có sưng và nề hai mi mắt,
- Một số trường hợp có hình ảnh đối xứng khớp với nhau.
Diễn biến tổn thương:
-Ban đầu bệnh nhân thấy đau, hơi ngứa, dát tại chỗ căng da biểu hiện đỏ ở một vùng da. Sau 6-12h thành một đám hơi nề, đỏ cộm , thành vệt, trên nền đỏ nổi thành mụn nước to nhỏ không đều đường kính từ 1- 5mm;
-Từ 1-3 ngày sau thành phỏng nước, phỏng mủ, lúc này cảm giác đau tăng lên có thể kèm theo cảm giác ngây ngay sốt, mệt mỏi khó chịu, nổi hạch , đau ở vùng cổ nách, bẹn tương ứng với tổn thương;
-Nếu tổn thương ở gần mắt có thể sưng húp cả hai mắt 5-7 ngày sau mới hết, ở bẹn có thể nổi hạch bẹn sưng đau, đi lại khó khăn, các phỏng nước , phỏng mủ tiến triển sau 4-5 ngày thì đóng vẩy tiết khô dần, khi rụng vẩy để lại vết sẫm màu da;
-Có trường hợp bệnh nhân chit nổi một vết đỏ lấm tấm mụn nước nhỏ, hơi ngứa, tổn thương lặn sau 3-5 ngày không thành phỏng nước, phỏng mủ;
-Trong mùa mưa một bệnh nhân có thể bị đi bị lại 2-4 lần, trong tập thể có thể có 10-12% người bị, bệnh có thể kéo dài 5-20 ngày.
Xét nghiệm:
Không có biến đổi gì đặc biệt, trừ một số trường hợp bị phỏng mủ rộng, sưng hạch to đau, bạch cầu có thể tăng cao.
Chẩn đoán phân biệt:
Bệnh Zona là một bệnh da do virus thường xuất hiện vào mùa xuân, tổn thương cơ bản là bọng nước đứng thành chùm, thường đứng một bên, xu hướng dọc dây thần kinh, sau 4-5 ngày bọng nước xẹp khô, đóng vảy tiết vàng sẫm , bọng nước khi lành để lại vết sẹo lõm bạc màu, không bao giờ mất. Kèm theo có hạch lân cận xuất hiện rất sớm , đau rát tại chỗ, tuổi mắc bệnh thường hơn 50 tuổi, xét nghiệm bạch cầu giảm.
Điều trị
Nguyên tắc điều trị theo giai đoạn tổn thương:
1. Nếu chỉ có dát đỏ, vết đỏ: Người bệnh chỉ cần điều trị tại nhà: Dùng nước muối loãng 9‰ hoặc nước vôi nhì, chấm ngày 3-4 lần nhằm trung hoà độc tố của côn trùng, tránh rửa nước nhiều, tránh kì cọ làm da tróc vẩy.
2. Nếu trường hợp đau rát nhiều: Người bệnh có thể đến các cơ sở y tế chuyên khoa Da liễu khám và điều trị bằng các thuốc chuyên khoa như:
- Dung dịch : Yarish , Đalibua , kháng sinh;
- Các loại hồ làm dịu da: Hồ nước, hồ Tetra – Pred
- Từ 4- 6 ngày, điều trị bệnh nhân sẽ khỏi bệnh
3. Nếu tổn thương nhiễm trùng hoá mủ: Dùng các dung dịch thuốc màu: Milian, Xanh methylene, thuốc tím pha loãng, sau 4-5 ngày tổn thương hết viêm, bong vẩy tiết cho các loại Crem, mỡ kháng sinh hoặc Corticoid. Trường hợp sốt có biểu hiện nhiễm trùng toàn thân có thể dùng kháng sinh kết hợp với kháng histamin tổng hợp và corticoid nhẹ để uống.
Phòng bệnh:
Buổi tối khi làm việc dưới ánh đèn cần phải đóng cửa sổ hoặc có lưới để tránh côn trùng bay vào, nhất là vào mùa mưa bão hàng năm. Chú ý phát hiện những côn trùng ở trong nước tắm, khăn mặt, quần áo trước khi dùng và làm vệ sinh môi trường.
Bệnh da do tiếp xúc với mỹ phẩm
Mỹ phẩm đã phần nào không thể thiếu được đối với phái đẹp: một đôi má phớt hồng, một khoé mắt xanh lơ, một đôi môi màu đỏ - đã trở thành việc làm thường có của nhiều chị em trong những ngày vui , ngày lễ , ngày tết. Tuy vậy nhiều khi chỉ một sơ suát nhỏ trong việc dùng kem, phấn, mà dẫn tới hậu quả tai hại , hoặc cảm thấy càng ngày da mình càng không được vừa ý. Thực tế đã có nhiều trường hợp vài ngày trước khi lên xe hoa chỉ vì nóng vội đã dùng kem thử trên da của mình sau đó 30 phút đã xuất hiện ngứa , đỏ, rát làm suýt nữa phải hoãn việc trăm năm của mình.
Nguyên nhân có thể do cơ thể đã phản ứng với kháng nguyên của mỹ phẩm. Phản ứng thường sảy ra từ thể nhẹ: rát, đỏ , ngứa, phù mặt gây khó chịu chỉ vài ngày sau nếu không dùng lại mỹ phẩm sễ hết. Phản ứng mạnh hơn có thể nề mi mắt, viêm kết mạc, ho , hen , sốc anaphylaxi. Hoặc có trường hợp viêm da do tiếp xúc ,eczema tiếp xúc làm mặt phù nề, chảy nước xuất dịch nhiều làm đau đớn, bệnh nhân không đi lại được ảnh hưởng đến niềm vui và công tác.
Từ 10 năm trở lại đây bệnh da do tiếp xúc với mỹ phẩm ngày một tăng, lý do đơn giản là ngày nay điều kiện kinh tế tương đối bớt khó khăn, hơn nữa số lượng mỹ phẩm ngày càng nhiều, càng sẵn có trên thị trường do đó khả năng dị ứng với kháng nguyên thường có trong mỹ phẩm ngày càng tăng. Theo bác sĩ La Chariae (1995) điều tra trên 3300 phụ nữ từ 18 tuổi trở lên thì thấy rằng: khi dùng mỹ phẩm có 51% có cảm giác da nhạy cảm ( nóng, rát , đỏ) 30 % có cảm giác vừa phải bình thường, không thấy gì, 10% có phản ứng với mỹ phẩm. Đây là một tỷ lệ đáng lưu ý.
Kháng nguyên gây nên phản ứng của da có nhiều loại, người ta hay gặp nhất là các thương hiệu như dầu thơm ( hoa nhài tự nhiên,Fragance, Baume de Perou, Colophan, Fragracemix) ; các chất bảo quản Kathon C. G , hoặc Parabens, Fomạdehyde, Dowicil 200, Euxyl K 400, acid sorbique alcobbenzylique , thyomrol...v.v. và các tá dược: Lanoline, Propylènne glycol, Glycénrin , crotein Q , Eneyl 400...
Thường gặp nhất các bệnh do mỹ phẩm gây nên là : nhuộm tóc gây đỏ da viền rìatóc, sau đó có thể gây phù nề mặt ,da đầu rớm dịch , thậm chí thành kiểu ban đỏ dạng; bệnh do đánh móng tay: vùng rìa móng chân, móng tay viêm đỏ gây viêm quanh móng, giòn móng, bệnh do nước tắm, son môi , do kem phấn cũng thường sảy ra làm da đỏ, nhiều vảy trắng, xù xì, viêm da đầu hoặc đỏ mặt.
Để tránh hiện tượng viêm da do mỹ phẩm gây nên cần thiết phải xem da mình có bị phản ứng với loại kem phấn, nước gội đầu, nước tắm....mình sắp dùng không? Chỉ cần một thời gian ngắn sau 30 phút nếu cẩn thận hơn sau 24 đến 48 giờ hãy dùng kem, phấn, mình sắp dùng, chọn vùng da không bị tổn thương ( hay dùng mặt trong cánh tay, để dễ quan sát) sát khuẩn sạch bằng ête hoặc cồn 70ºC bôi lên vùng da. Nếu thấy đỏ , ngứa, nổi mẩn thì phải ngừng ngay. Nếu không thấy hiện tượng trên thì có thể dùng được. Tuy vậy để chắc chắn mọi người hãy đến một cơ sở da liễu nào đó hoặc bác sĩ chuyên khoa da liễu để xác định bệnh và hướng dẫn cụ thể là tốt nhất.
Tài liệu tham khảo
1.Ngô Xuân Nguyệt. Bệnh da do tiếp xúc côn trùng. http://bachmaihospital.org/
2.Ngô Xuân Nguyệt. Bệnh da do tiếp xúc mỹ phẩm. http://bachmaihospital.org/
3.Vũ Triệu An (1997). Khái niệm về đáp ứng miễn dịch. Miễn dịch học. NXB y học: 25-36.
4.Trần Thi Chính (1997). Tế bào T và đáp ứng MD dịch thể. Miễn dịch học. NXB y học: 51-74.
5.Nguyễn Xuân Hiền, Nguyễn Cảnh Cầu, Trương Mộc Lợi, Bùi Khánh Duy (1991). Bệnh ngoài da và hoa liễu. NXB y hoc: 223-227.
6.O. Bayrou. Informations dermatologiques et cosmétiques. No 23.11.1996, page 6-9
7.Janser Ch.T. Erythemal and pigmentary phototest reactions in polymorphic ligh eruption Acta dermato-venereologica, vol. 59, No6, 1079, 499-503
8.Samitz M.H. Occupational skin diseases Dermatology Moshella and Hurley vol.2 W.B. Saunders company 1985, 1691-1730
9.Bênh ngoài da và hoa liễu. NXB Y học, 1991, trang 102-106
10.M. Castelain. Der. Pra. No 177.6.96
11.Carteand A., Gougeront H. Dermatoses prosessionnelles Librairie Moloine 1952
12.C. Beylot. Thérapeutique dermatologique 1991, page 5-17
13.Arnold HL, Odom RB, James WD (1990). Viral disease; Adrew's disease of the skin. WB.Sauders company: 441-484.
14.Một số hình ảnh trích từ internet mang tính minh họa