Sốt rét sơ nhiễm là thể bệnh sốt rét xảy ra trên trên đối tượng người vừa mới từ vùng không có sốt rét đến vùng có sốt rét lưu hành chưa có miễn dịch với bệnh. Trong vùng sốt rét lưu hành, khi trẻ em từ 4 tháng tuổi đến 2-4 tuổi bị mắc sốt rét lần đầu cũng được gọi là sốt rét sơ nhiễm.
Các đặc điểm sốt rét sơ nhiễm
Trong giai đoạn đầu, triệu chứng đầu tiên được ghi nhận là mệt mỏi cơ khớp, nhức đầu, chán ăn, cảm giác đắng miệng, gai lạnh sống lưng, ngáp vặt; thậm chí ở một số người bệnh có biểu hiện đi tiêu lỏng; lúc này bệnh nhân đã có sốt nhẹ khoảng 37,5oC. Sốt tăng nhanh trong vài ngày rồi trở thành sốt liên tục với nhiệt độ cao khoảng từ 39 đến 40oC hoặc dao động không đều, có khi chồng cơn, có thể có từ 2 đến 3 đỉnh sốt trong một ngày; các đỉnh đồng nhịp với các đợt hồng cầu bị phá vỡ để tung các ký sinh trùng sốt rét non vào máu. Ở giai đoạn đầu của chu kỳ phát triển, các ký sinh trùng non từ gan vào máu chưa đồng nhịp, do đó sốt chưa biểu hiện thành cơn có chu kỳ.
Qua giai đoạn tiếp theo, nếu người bệnh không được phát hiện, điều trị; từ 8 đến 15 ngày sau đó triệu chứng sốt sẽ chuyển dần thành cơn sốt biểu hiện bằng 3 giai đoạn rét run, nóng sốt, vã mồ hôi và cơn sốt có chu kỳ.
Trong sốt rét sơ nhiễm, thời gian của mỗi cơn sốt kéo dài trung bình khoảng từ 6 đến 12 giờ. Khi cơn sốt có chu kỳ, cách khoảng cơn sốt tùy thuộc từng loại ký sinh trùng sốt rét gây bệnh. Đối với ký sinh trùng Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax, cơn sốt cách nhau 48 giờ (2 ngày). Đối với ký sinh trùng Plasmodium malariae, cơn sốt cách nhau 72 giờ (3 ngày). Nếu bị nhiễm ký sinh trùng Plasmodium falciparum, cũng hay gặp cơn sốt hàng ngày (24 giờ) khi có 2 lứa ký sinh trùng trở lên phát triển so le, không đồng nhịp.
Một đặc điểm khác của sốt rét sơ nhiễm là có triệu chứng nhiễm trùng nhiễm độc, rối loạn thần kinh thực vật thường nặng hơn sốt rét tái phát được biểu hiện bằng cơn rét run bần bật, nổi da gà, da tái xanh; cơn nóng sốt dữ dội kèm theo nhức đầu nặng, nôn mửa, có khi vật vả, mê sảng, nhịp thở nhanh, mạch đập mạnh, đau bụng, tiêu chảy; cuối cùng mồ hôi vã như tắm.
Trong sốt rét sơ nhiễm, hồng cầu có thể chưa giảm nhiều, lách có thể chưa sờ thấy ở dưới bờ sườn nhưng mật độ ký sinh trùng thường cao và thường chưa thấy giao bào trong từ 8 đến 10 ngày đầu đối với Plasmodium falciparum và 2 ngày đầu đối với Plasmodium vivax. Sốt rét sơ nhiễm do Plasmodium falciparum trong giai đoạn sơ nhiễm 6 tháng đầu có thể chuyển thành nặng, thành sốt rét ác tính, sốt rét tiểu huyết cầu tố.
Các thể bệnh sốt rét sơ nhiễm
Các thể bệnh của sốt rét sơ nhiễm được phân loại tùy theo cơn sốt, mức độ và thể không sốt.
- Theo cơn sốt: có thể loại sốt cao liên tục, sốt dao động, sốt chồng cơn, sốt 2 cơn một ngày.
- Theo mức độ: có thể loại nhẹ, triệu chứng nghèo nàn; thường gặp khi bị nhiễm ký sinh trùng Plasmodium vivax, Plasmodium malariae; hiếm gặp đối với Plasmodium falciparum.
- Thể sơ nhiễm không sốt: có liên quan đến loại ký sinh trùng Plasmodium vivax có thời gian ủ bệnh dài.
Phân biệt sốt rét sơ nhiễm với một số bệnh khác thường gặp
Thực tế hiện nay do tình trạng giao lưu, đi lại của người dân từ vùng đồng bằng, thành phố không có sốt rét vào các vùng sốt rét lưu hành khá phổ biến nên nguy cơ bị mắc bệnh sốt rét là điều không thể tránh khỏi nếu không được phòng vệ tốt. Người dân sẽ bị nhiễm sốt rét ngoại lai trở về địa phương nơi cư trú trong loại hình sốt rét sơ nhiễm. Nếu không cảnh giác và chú ý khai thác đầy đủ các yếu tố dịch tễ, cả người bệnh và cơ sở y tế có thể bỏ sót, chẩn đoán nhầm với các bệnh khác thường hay gặp như thương hàn, sốt mò, sốt Dengue xuất huyết độ I, nhiễm virus đường hô hấp trên... Vì vậy cần quan tâm đến sự phân biệt này để tránh nhầm lẫn đáng tiếc xảy ra trong phát hiện, chẩn đoán.
Đối với bệnh thương hàn
Bệnh sốt rét sơ nhiễm và bệnh thương hàn đều có triệu chứng sốt liên miên, li bì, gan-lách sưng, bạch cầu không cao... Tuy nhiên, bệnh thương hàn khác ở đặc điểm người bệnh có triệu chứng lưỡi khô có rêu lưỡi, viền đỏ, bụng đầy chướng; hố chậu phải óc ách, gõ đục; thường có phân lỏng, mùi hôi thối, màu mận chín từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 3. Ngoài ra tình trạng thiếu máu không tăng rõ như bệnh sốt rét, bạch cầu ái toan thường âm tính và kết quả xét nghiệm Vidal dương tính.
Đối với bệnh sốt mò
Bệnh sốt mò cũng có sốt cao liên tục, xuất hiện nhiều ở mùa mưa, bạch cầu bình thường như trong bệnh sốt rét sơ nhiễm. Tuy nhiên, bệnh sốt mò khác ở đặc điểm là có nốt loét đặc hiệu với vảy màu nâu đen, không đau, không ngứa, hạch sưng to ở khu vực nốt loét, hồng cầu không giảm rõ, phản ứng bổ thể và miễn dịch huỳnh quang gián tiếp đặc hiệu dương tính có giá trị tương đối.
Đối với bệnh sốt Dengue xuất huyết độ I
Bệnh sốt Dengue xuất huyết độ I dễ nhầm với sốt rét sơ nhiễm vì có cơn sốt dao động, bạch cầu cũng giảm. Tuy vậy, bệnh Dengue xuất huyết khác ở đặc điểm là thường người bệnh chỉ sốt từ 3 đến 7 ngày rồi tự trở về bình thường, da và niêm mạc xung huyết rõ, véo da hay dấu hiệu dây thắt (lacet) dương tính; có máu lâu đông tại mũi kim khi tiêm chích, thời gian chảy máu thường dài, tiểu cầu thường giảm, có hiện được cô đặc máu, hematocrite tăng, phản ứng Mac Elisa IgM và ngưng kết kháng hồng cầu (IH) dương tính.
Đối với bệnh nhiễm virus đường hô hấp trên
Bệnh cúm thông thường, bệnh do Adenovius... gây viêm nhiễm đường hô hấp trên cũng dễ nhầm lẫn với bệnh sốt rét sơ nhiễm. Triệu chứng khác biệt là người bệnh có da, niêm mạc xung huyết rõ, thường ho kèm theo viêm mũi họng và đường hô hấp trên, không có dấu hiệu thiếu máu; đợt sốt trung bình khoảng từ 3 đến 5 ngày.
Khuyến cáo
Do sốt rét sơ nhiễm có những đặc điểm riêng, xảy ra trên các đối tượng từ vùng không có sốt rét mới đến vùng có sốt rét lưu hành chưa có miễn dịch sốt rét và trẻ em nhỏ tuổi ở vùng sốt rét; vì vậy cần chú ý đến đặc điểm này để phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Nếu chẩn đoán muộn hoặc chẩn đoán nhầm lẫn với một số bệnh thường gặp khác đã nêu ở trên sẽ dẫn người bệnh đi đến sốt rét nặng, sốt rét ác tính và hậu quả tử vong sẽ xảy ra.