Trước đây để điều trị bệnh sốt rét bằng thuốc Quinhaoshu, Artesunat kể cả viên uống và lọ tiêm, chúng ta phải nhập khẩu nguồn thuốc từ nước ngoài. Từ khi trồng được cây Thanh hao hoa vàng, ta đã chiết xuất ra hoạt chất để điều chếArtemisinin và các dẫn xuất của nó như Artesunat, Dihydroartemisinin ... bảo đảm nguồn thuốc điều trị sốt rét có hiệu lực cao sản xuất trong nước dưới dạng uống và tiêm. Trong thời gian qua, thuốc Artemisinin và các dẫn xuất của nó dùng đơn thuần hay phối hợp với các loại thuốc khác đã góp phần rất lớn trong điều trị bệnh sốt rét có hiệu quả. Đặc biệt thuốc Artesunat tiêm đã có vai trò giải quyết sốt rét nặng và sốt rét thể ác tính để hạ thấp tỷ lệ tử vong đã được khẳng định. Tuy vậy trên thực tế, một số cơ sở điều trị chưa chú ý đến việc sử dụng thuốc Artesunat tiêm bảo đảm yêu cầu để có hiệu quả tốt.
Cây Thanh hao hoa vàng, Artemisinin và các dẫn xuất
Từ cây Thanh hao hoa vàng được trồng thành công tại các tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc của nước ta, cây có tên khoa học là Artemisia annua L. đã chiết xuất được hoạt chất Artemisinin là một Sesquiterpen lacton, có cầu peroxyt (C15H22O5). Viên thuốc Artemisinin lúc đầu sản xuất có hàm lượng 250mg. Sau đó các dẫn xuất của nó lần lượt được sản xuất dưới dạng Artesunat natri viên 50mg, Dihydroartemisinin viên 20mg và Artesunat natri ống 60mg. Thuốc có tác dụng diệt nhanh thể vô tính trong hồng cầu, không diệt được thể ngủ trong gan, gần đây tác dụng ức chế sinh sản giao bào được quan sát và được xác định trong phòng thí nghiệm cũng như trên thực địa. Artemisinin, Artesunat, Dyhydroartemisinin hấp thu nhanh, đạt đỉnh cao nồng độ trong huyết tương sau khoảng 60 phút và sau 4-8 giờ còn thấy trong máu. Ngoài thuốc viên, Artesunat được sản xuất dưới dạng thuốc tiêm để sử dụng trong các trường hợp bệnh nhân sốt rét nặng và sốt rét thể ác tính, bị nôn mửa nhiều, hôn mê, co giật ... không dùng được thuốc uống và loại thuốc này đã được Dự án Quốc gia Phòng chống Sốt rét chỉ đạo, cung cấp rộng rãi đến tận các Trạm Y tế xã, phường, thị trấn với mục tiêu làm giảm tử vong do sốt rét.
Sử dụng thuốc tiêm Artesunat lọ 60mg
Thuốc Artesunat tiêm được sản xuất dưới dạng lọ bột với hàm lượng 60mg kèm theo ống 1ml Natri bicarbonat 5% làm dung môi hòa tan bột Artesunat ở trong lọ. Tất cả lọ thuốc và ống dung môi hòa tan được bảo quản trong cùng một hộp thuốc. 10 hộp thuốc được đóng gói thành một hộp lớn hơn để dễ quản lý, vận chuyển và phân phối. Theo hướng dẫn, khi sử dụng thuốc để tiêm, dùng lọ bột Artesunat 60mg pha với 1ml Natri bicarbonat 5% làm dung môi hòa tan. Lắc kỹ cho bột Artesunat hòa tan hoàn toàn, dung dịch trong suốt, sau đó pha thêm 5ml Natri chlorua 9‰ cho loãng để tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp thịt nếu không tiêm được tĩnh mạch (6ml dung dịch tiêm có 60mg Artesunat). Việc pha thêm 5ml Natri chlorua 9‰ giúp để chia liều lượng chính xác cho bệnh nhân là trẻ em, bảo đảm làm thế nào trong 1ml dung dịch thuốc phải có đủ hàm lượng 10mg Artesunat. Nếu bệnh nhân là người lớn, trường hợp không tiêm được tĩnh mạch, chỉ tiêm được bắp thịt và có thể dùng hết cả ống thuốc với hàm lượng 60mg trong một lần thì chỉ cần pha bột thuốc với 1ml Natri bicarbonat 5%, lắc kỹ cho bột Artesunat tan hoàn toàn, dung dịch trong suốt rồi tiêm vào bắp thịt. Liều lượng sử dụng thuốc có thể tính theo cân nặng cơ thể hoặc theo lứa tuổi. Nếu tính theo cân nặng cơ thể thì sử dụng liều lượng giờ đầu tiên là 2,4mg/kg; 24 giờ sau tiêm nhắc lại 1,2mg/kg; sau đó mỗi ngày tiêm một liều 1,2mg/kg cho đến khi bệnh nhân tỉnh táo, thoát khỏi cơn hôn mê hay co giật, có thể nuốt và uống được thì chuyển sang thuốc uống cho đủ 7 ngày. Nếu trường hợp không có cân để tính liều lượng thuốc theo cân nặng của bệnh nhân thì có thể tạm tính theo lứa tuổi. Với thuốc Artesunat tiêm đã pha chế theo quy định, ngày thứ nhất dùng 2ml cho trẻ em dưới 1 tuổi, 4ml cho trẻ em từ 1 đến dưới 5 tuổi, 8ml cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi, 10ml cho trẻ em từ 12 đến dưới 15 tuổi và 12 ml (2 lọ) cho bệnh nhân từ 15 tuổi trở lên; các ngày sau đó thì tiêm giảm đi ½ liều so với ngày đầu tiên cho đến khi bệnh nhân tỉnh táo, thoát khỏi cơn hôn mê hay co giật, có thể nuốt và uống được thì chuyển sang thuốc uống cho đủ 7 ngày. Không dùng thuốc Artesunat cho phụ nữ có thai trong 3 tháng đầu trừ những trường hợp bị sốt rét thể ác tính. Gần đây Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã khuyến cáo trong điều trị bệnh sốt rét không nên sử dụng thuốc Artemisinin và các dẫn xuất của nó đơn thuần mà nên phối hợp với một loại thuốc khác để tăng tính hiệu lực và làm hạn chế khả năng chịu đựng, kháng thuốc sớm của ký sinh trùng sốt rét.
Thực trạng sử dụng thuốc tiêm Artesunat
Mặc dù Bộ Y tế đã có chỉ định và hướng dẫn sử dụng thuốc Artesunat tiêm để điều trị bệnh sốt rét nặng và sốt rét thể ác tính một cách cụ thể như trên nhưng trong thực tế ở một số các cơ sở y tế, kể cả tuyến huyện, tỉnh và trung ương chưa hoàn toàn tuân thủ những quy định tối thiểu cơ bản này. Thầy thuốc có y lệnh sử dụng thuốc nhưng không cẩn thận hướng dẫn y tá điều dưỡng thực hành pha chế thuốc đầy đủ vì cho đây là một việc đơn giản thì sẽ gặp phải nhược điểm tồn tại. Bản thân y tá điều dưỡng nếu chủ quan, không chịu khó tìm hiểu học tập thì dù một động tác rất đơn giản bỏ qua cũng không thể đáp ứng được hiệu quả điều trị mong muốn. Thực trạng thường gặp phải trong thực tế là y tá điều dưỡng pha ống dung môi 1ml Natri bicarbonat 5% với bột Artesunat 60mg, dung dịch chưa được hòa tan hoàn toàn thì đã vội rút thuốc vào ống tiêm để tiêm bắp thịt hoặc thêm 5ml Natri chlorua 9‰ vào pha loãng và rút thuốc ngay vào ống tiêm để tiêm tĩnh mạch. Với động tác rất nhỏ nhưng không cẩn thận này, khi rút lấy dung dịch Artesunat ra khỏi lọ thuốc thì một lượng bột Artesunat chưa hoà tan hoàn toàn còn đọng lại ở trong lọ, 6ml dung dịch được lấy ra không bảo đảm đủ hàm lượng 60mg Artesunat; có nghĩa là không bảo đảm 1ml dung dịch có đủ 10mg Artesuanat. Nếu tiêm vào cơ thể bệnh nhân thì thuốc không đủ liều lượng điều trị theo yêu cầu nên không đáp ứng được kết quả điều trị. Theo dõi đáp ứng điều trị, Thầy thuốc sẽ hoang mang và nghĩ rằng đã điều trị thất bại do ký sinh trùng sốt rét tăng khả năng chịu đựng hoặc có khả năng kháng lại với thuốc Artesunat được sử dụng. Vì vậy Thầy thuốc điều trị cần có y lệnh quy định cụ thể cho y tá điều dưỡng là phải lắc kỹ lọ thuốc bột Artesunat 60mg với 1ml dung môi Natri bicarbonat 5% tối thiểu trong vòng 5 phút để bột Artesunat tan hoàn toàn trước khi sử dụng tiêm bắp thịt hoặc thêm vào 5ml Natri chlorua 9‰ để pha loãng khi sử dụng tiêm tĩnh mạch. Cũng cần lưu ý nếu dung dịch thuốc sau khi pha bị vẩn đục, không trong suốt thì không nên sử dụng mà phải loại bỏ đi, dùng lọ thuốc khác thay thế.
Để sử dụng thuốc Artesunat tiêm điều trị bệnh sốt rét có hiệu quả nhất là giải quyết tốt sốt rét nặng và sốt rét thể ác tính, góp phần hạ thấp tỷ lệ tử vong theo mục tiêu của Dự án Quốc gia Phòng chống Sốt rét. Tất cả các cơ sở y tế kể các tuyến trung ương, tỉnh, huyện cần phải quan tâm, quán triệt và chỉ đạo một vấn đề tưởng chừng như rất đơn giản nhưng trong thực tế thực trạng này vẫn còn tồn tại ảnh hưởng đến chất lượng công tác điều trị ở một số cơ sở.