Trong những năm gần đây, bệnh sốt rét vẫn là mối lo ngại lớn của nhiều quốc gia, theo Tổ chức Y tế thế giới (2000) hàng năm trên thế giới có khoảng 300-500 triệu người mắc và 1,7-2,5 triệu người chết do sốt rét ở 95 quốc gia thuộc các châu lục. Hiện nay, ký sinh trùng sốt rét chủng P.falciparum đã kháng với nhiều thuốc như Chloroquine, Sulfadoxine/Pyrimethamine, Quinine và Mefloquine ở những mức độ khác nhau theo những vùng địa lý khác nhau. Tình hình ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc gia tăng đã ảnh hưởng tới các biện pháp điều trị và chỉ tiêu giảm tỷ lệ bệnh trong Chương trình quốc gia phòng chống sốt rét. Vấn đề đặt ra là cần tìm kiếm những phác đồ điều trị có hiệu quả nhằm giảm nhanh mật độ ký sinh trùng sốt rét, ngăn chặn sốt rét cấp tính chuyển sang ác tính, giảm tỷ lệ tái phát, giảm tử vong sốt rét và được cộng đồng chấp nhận.
|
Các kỹ thuật viên thực hiện các kỹ thuật nghiên cứu kháng thuốc tại labo nuôi cấy của Viện sốt rét KST - CT Quy Nhơn. |
Artemisinine và dẫn xuất có tác dụng diệt ký sinh trùng sốt rét nhanh, hấp thu nhanh và an toàn trong điều trị. Tuy vậy, tỷ lệ tái phát còn khá cao nếu dùng ngắn ngày. Mefloquine được sử dụng ở Việt Nam từ năm 1990, nhưng qua các báo cáo ở Thailand, Cambodia và ở nước ta cho thấy P.falciparum đã kháng với loại thuốc này; mặt khác Mefloquine là thuốc phải nhập ngoại, giá thành tương đối cao, bệnh nhân rất khó chấp nhận do điều kiện kinh tế còn nhiều hạn hẹp. Cho tới nay, Artemisinine và dẫn chất là Artesunate đã được dùng đơn thuần hoặc kết hợp với Mefloquine theo nhiều phác đồ khác nhau nên cũng cho kết quả điều trị khác nhau.
Kết quả nghiên cứu so sánh hiệu lực phác đồ Artesunate đơn thuần với phác đồ Artemisinine phối hợp Mefloquine của Nguyễn Bá Hành (Bệnh viện Quân y 87) và Bùi Đại (Nguyên giám đốc Viện Quân y 108) từ 1995-2002 trên 60 bệnh nhân sốt rét do P.falciparum tại bệnh viện 87 được tóm tắt như sau:
-Bệnh nhân được lựa chọn ngẫu nhiên cho hai nhóm điều trị: Nhóm I (30 bệnh nhân) dùng Artesunate ngày thứ nhất uống 4 mg/kg, 4 ngày tiếp theo mỗi ngày uống 2 mg/kg; Nhóm II (30 bệnh nhân) dùng Artemisinine 20 mg/kg/ngày ´ 3 ngày, chia 4 lần phối hợp với Mefloquine 10 mg/kg liều duy nhất uống với liều Artemisinine ngày đầu tiên.
-Thời gian sạch ký sinh trùng trung bình (PCT) ở nhóm (I) sử dụng Artesunatelà 42,4 ± 15,1 giờ và ở nhóm (II) Artemisinine phối hợp Mefloquine là 43,2 ± 15,6 giờ (P>0,05).
-Thời gian cắt sốt trung bình (FCT) ở nhóm (I) sử dụng Artesunatelà 36,0 ± 16,1 giờ và ở nhóm (II) Artemisinine phối hợp với Mefloquine là 40,8 ± 15,4 giờ (P>0,05).
-Tỷ lệ bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng đầy đủ (S) của phác đồ Artesunate là 83,3% thấp hơn so với phác đồ Artemisinine phối hợp Mefloquine (96,7%), đồng thời tỷ lệ tái phát (RI) ở phác đồ Artesunate là 16,7% cao hơn so với phác đồ Artemisinine phối hợp Mefloquine (3,3%) với P>0,05
-Phác đồ Artesunate không gây tác dụng phụ, phác đồ Artemisinine phối hợp Mefloquine có một số tác dụng phụ như nhức đầu, buồn nôn (27%); hoa mắt, chóng mặt (23%); đau bụng 10%… Những triệu chứng này biểu hiện thoáng qua, tự hết và không cần phải xử lý gì.
Kết quả nghiên cứu khẳng định hiệu lực các phác đồ có thể lựa chọn điều trị sốt rét do P.falciparum: phác đồ Artesunate có thời gian sạch ký sinh trùng và cắt sốt nhanh, nhưng tỷ lệ tái phát sớm cao nếu dùng ngắn ngày; phác đồ Mefloquineđơn thuần có thời gian sạch ký sinh trùng và cắt sốt chậm hơn Artesunate nhưng thuốc có thời gian bán hủy dài 22 ngày. Do đó việc phối hợp các thuốc này đem lại hiệu quả cao, rút ngắn được thời gian điều trị và dễ được cộng đồng chấp nhận.