Mặc dù trong sinh hoạt hàng ngày, con người thường xuyên tiếp xúc với loại bào tử nấm Aspergillus. Tuy nhiên chỉ có một số người bị nhiễm loại nấm này và mắc bệnh. Những trường hợp bệnh nặng hay gặp ở người có suy giảm miễn dịch như bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS...
Đặc điểm loại nấm Aspergillus
Nấm Aspergillus có trên 100 loài, chúng có mặt ở khắp nơi trên thế giới, nhất là tại những vùng ẩm ướt. Trong đó chỉ có khoảng trên 20 loài gây bệnh cho người, hay gặp nhất là loại nấm Aspergillus fumigatus. Ngoài ra còn có thể gặp loại nấm Aspergillus flavus, Aspergillus niger, Aspergillus nidulans, Aspergillus terreus... Bệnh do bị nhiễm loại nấm Aspergillus gây nên gọi là bệnh Aspergillosis.
Aspergillus là loại nấm sợi, phần lớn sống hoại sinh ở trong đất, trên nhiều loại chất hữu cơ khác nhau và sinh ra rất nhiều bào tử nấm; chúng rụng định kỳ và phát tán theo gió, do đó con người thường xuyên tiếp xúc với bào tử của loại nấm Aspergillus. Bộ phận sinh bào tử của nấm Aspergillus có cấu trúc đặc biệt gồm đính bào đài mọc từ tế bào chân, ngọn đính bào đài, tiểu bào đài, trên tiểu bào đài sinh ra các bào tử có kích thước nhỏ khoảng từ 2 đến µm, nhìn trông giống bông hoa cúc.
 |
Aspergillus Flavus (nguồn ảnh:http://vietsciences.free.fr) |
Aspergillus fumigatus là loại nấm ưa nhiệt độ cao, có thể phát triển tốt ở nhiệt độ cao tới 55oC. Chúng thấy nhiều nhất ở những chất hữu cơ thối rữa, quá trình thối rữa làm tăng nhiệt độ thích hợp cho nấm Aspergillus fumigatus phát triển. Có những loại nấm như Aspergillus restricus có thể phát triển ở độ ẩm thấp trong khi phần lớn các loại nấm sợi khác không phát triển được.
Bệnh lý do nấm Aspergillus gây nên
Đường xâm nhập chủ yếu của loại nấm Aspergillus vào cơ thể người là qua đường hô hấp, cũng có thể bị nhiễm qua các tổn thương ở da như bị bỏng, trong khi phẩu thuật da hoặc bị xây xát da và niêm mạc. Khi bào tử nấm xâm nhập qua đường hô hấp, phần lớn chúng bị hệ thống lông chuyển ở niêm mạc (muco-ciliaires) thải ra hoặc đại thực bào phế nang cô lập, sau đó bị bạch cầu đa nhân trung tính thực bào và tiêu diệt. Nếu vượt qua được hàng rào bảo vệ, nấm có thể phát triển tốt ở nhiệt độ 37oC.
Bị nhiễm nấm Aspergillus có thể do các yếu tố nguy cơ như:
- Người bị nhiễm nhiều bào tử nấm vượt quá khả năng đề kháng của cơ thể, thường gặp trong các bệnh có tính chất nghề nghiệp như công nhân ở các nhà máy chế biến lông vũ, thợ giặt áo lông, công nhân cạo ống khói... Trong một số trường hợp ghi nhận tỷ lệ nhiễm bệnh nấm này tăng lên sau khi công nhân tiến hành sửa chữa các công trình xây dựng.
- Người bị suy giảm khả năng bảo vệ của cơ thể có liên quan đến chức năng các tế bào thực bào như tổn thương đại thực bào, bạch cầu đa nhân trung tính, sử dụng các loại thuốc làm độc tế bào, thuốc thuộc nhóm corticoide, suy giảm miễn dịch... Ở trên những bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS, bệnh do nấm Aspergillus thường gặp ở giai đoạn muộn.
- Người có các yếu tố tổn thương tại chỗ như các hang sẵn có, giãn phế quản, bệnh sarcodioidos... và các yếu tố ngoại sinh như đặt ống dẫn catheter, van tim nhân tạo...
Nấm Aspergillus khi xâm nhập vào cơ thể, chúng có thể gây ra rất nhiều bệnh cho người và các loại động vật. Nấm có thể gây độc do bị nhiễm độc tố nấm trong thức ăn ô nhiễm, gây bệnh dị ứng do nấm phát triển tại chỗ không xâm nhập hoặc gây bệnh khi nấm xâm nhập. Khi xâm nhập, nấm Aspergillus chủ yếu gây bệnh ở phổi, đôi khi gây bệnh ở ngoài phổi.
 |
(Ảnh: broad.mit) |
Các bệnh ở phổi-phế quản (pulmonary aspergillosis)
- Bệnh dị ứng do nấm Aspergillus có thể gặp như bị hen suyễn ngoại sinh (extrensic asthma), bệnh viêm phế nang dị ứng ngoại sinh (extrinsic allergic alveolitis), bệnh phổi-phế quản dị ứng do Aspergillus (allergic bronchopulmonary aspergillosis-ABPA) hay là bệnh phổi tăng mẫn cảm (hypersensitivity pneumonitis). Biểu hiện lâm sàng của bệnh ABPA có thể có hen suyễn, thâm nhiễm phổi từng đợt hoặc liên tục, tăng bạch cầu ái toan ngoại vi, test da với kháng nguyên Aspergillus dương tính, phản ứng kết tủa phát hiện kháng thể với Aspergillus dương tính, tăng IgE toàn bộ và IgE đặc hiệu với Aspergillus. Bệnh nhân thường ho có đờm nút (plug) và có tiền sử viêm phế quản mãn tính. Triệu chứng có thể nhẹ, thoáng qua nhưng cũng có thể tái phát nhiều lần; tiến triển tới tình trạng giãn phế quản, xơ hóa phổi.
- Bệnh bướu nấm (fungus ball) xuất hiện trên những người sẵn có thương tổn hang ở phổi, thường là những hang lao hay sarcoidosis. Nấm chỉ phát triển trong hang thành một khối, không xâm nhập qua thành hang. Biểu hiện lâm sàng thường có ho ra đờm lẫn máu, có kháng thể Aspergillus dương tính. Tuy nhiên, nhiều trường hợp không có triệu chứng lâm sàng và phát hiện tình cờ khi chụp phim X quang phổi. Tiến triển bệnh có thể tự khỏi từ 7 đến 10%, tạo thành các ổ calci hóa; có thể ổn định khoảng 25%; có thể gây ra những biến chứng như ho ra máu, đôi khi ho ra máu nhiều, đột ngột và dẫn đến tử vong; gây viêm phổi-phế quản cấp tính, mãn tính; gây suy hô hấp... Hiếm gặp các trường hợp nấm từ các bướu lan tỏa đến các cơ quan khác.
- Thể bệnh xâm nhập cấp tính thường gặp ở những người giảm bạch cầu kéo dài, đặc biệt ở bệnh nhân bị bệnh bạch cầu cấp hoặc người nhận tủy ghép, đang sử dụng loại thuốc corticosteroide, thuốc độc tế bào. Ở mức độ thấp hơn có thể xảy ra ở bệnh nhân AIDS hoặc bệnh viêm u hạt mãn tính. Biểu hiện lâm sàng có thể giống viêm phổi cấp do vi khuẩn như sốt, ho, đau ngực, viêm phổi-phế quản hoại tử hoặc xuất huyết. Chụp phim X quang thường không có hình ảnh đặc hiệu, phản ứng huyết thanh thường âm tính; đây là biểu hiện hay gặp nhất của bệnh Aspergillosis ở người suy giảm miễn dịch. Nấm có thể xâm nhập mạch máu gây nhồi máu các mô ở xa, có thể lan tràn đến các cơ quan khác như gan, dạ dày, tim... Bệnh nhân có thể tử vong sau vài tuần nếu tình tạng suy giảm miễn dịch không được cải thiện.
- Thể bệnh hoại tử mạn tính thường nhiễm trùng thầm lặng, tiến triển chậm, bán xâm nhập (semi-invasive) ở người suy giảm miễn dịch nhẹ, hay gặp nhất ở bệnh nhân có tiền sử bệnh phổi. Bệnh tiểu đường, điều trị bệnh sarcoidosis với glucocorticoides liều thấp là những yếu tố thuận lợi khác giúp bệnh nấm phát triển. Biểu hiện lâm sàng thường gặp là sốt, ho khan hoặc ho có đờm, phản ứng miễn dịch có thể dương tính.
Các bệnh ở ngoài phổi
- Bệnh ở xoang do bướu nấm xâm nhập vào xoang, chủ yếu gặp ở những người khỏe mạnh. Yếu tố thuận lợi là viêm xoang mãn tính, xoang không dẫn lưu được, có nhiều chất nhầy. Thể xâm nhập thường gặp ở bệnh nhân suy giảm miễn dịch, người bệnh sốt, viêm mũi, các triệu chứng nấm xuất hiện ở ổ mắt.
- Bệnh ở mắt do nấm có thể gây viêm giác mạc, thường bị nấm xâm nhập sau khi bị viêm xước giác mạc. Những người nông dân bị lá lúa, cọng rơm, rạ quệt vào mắt hoặc bị bụi làm xước giác mạc sẽ mang theo nấm Aspergillus gây viêm giác mạc.
- Bệnh ở tai do nấm xâm nhập gây viêm ống tai ngoài, tác nhân thường gặp là loại nấm Aspergillus niger.
- Bệnh ở da do nhiễm nấm Aspergillus thường gặp ở bệnh nhân bị bỏng rộng, sâu; người bị chàm có vết loét rộng, mạn tính. Những vùng da bị hoại tử tạo môi trường thích hợp cho nấm phát triển. Khi nấm Aspergillus nhiễm vào vùng bị tổn thương, sợi nấm tiến dần đến vùng hoại tử và có thể lan tràn theo đường máu.
Chẩn đoán và điều trị
Chẩn đoán xác định bệnh do bị nhiễm nấm Aspergillus thường căn cứ vào các phương pháp xét nghiệm nấm trực tiếp, giải phẩu bệnh, nuôi cấy hoặc chẩn đoán miễn dịch.
- Phương pháp xét nghiệm nấm trực tiếp thực hiện bằng cách dùng bệnh phẩm đờm, dịch dẫn lưu, dịch rửa phế quản... soi trong dung dịch KOH dưới kính hiển vi có thể thấy sợi nấm, đôi khi thấy bào đài, tiểu bào đài và bào tử.
- Phương pháp giải phẩu bệnh thực hiện bằng cách sinh thiết mô bị tổn thương, nhuộm hemotoxylin, gomori methamine silver (GMS), periodic acid schiff (PAS)... thấy các sợi nấm chia nhánh thành hai, tạo góc 45o, đường kinh từ 2 đến 5 µm; đôi khi thấy các tế bào nấm hình tròn hoặc hình ovale ở đầu hoặc giữa sợi nấm, chúng có thể đứng đơn độc, kích thước từ 4 đến 10 µm do các bào tử nấm phồng lên, có thể thấy bào đài, tiểu bào đài...
- Phương pháp nuôi cấy nấm được thực hiện do nấm nhạy cảm cycloheximid, phát triển tốt trên môi trường Sabouraud. Phần lớn nấm gây bệnh phát triển tốt ở nhiệt độ từ 30 đến 37oC, nấm mọc nhanh, sau từ 2 đến 3 ngày đã thấy khuẩn lạc mọc; khuẩn lạc có thể có màu trắng, vành, vàng nâu, xanh hay đen tùy loài. Môi trường chuẩn để định loại nấm Aspergillus là Czapek và malt extract agar. Do loại nấm Aspergillus có nhiều ở môi trường nên việc nuôi cấy chỉ có ý nghĩa khi thấy nhiều nấm từ một mẫu bệnh phẩm hoặc cùng một loài nấm từ nhiều bệnh phẩm khác nhau, từ những bệnh phẩm vô trùng như máu, dịch não tủy, các bệnh phẩm như sinh thiết chọc hút xuyên thành ngực, nội soi ống mềm, dịch rửa phế quản... Có thể nuôi cấy nấm ở hai nhiệt độ khác nhau, nhiệt đọ phòng thí nghiệm và nhiệt độ 37oC để phân biệt nấm Aspergillus ký sinh và hoại sinh do bị nhiễm từ môi trường. Nấm Aspergillus hoại sinh phát triển nhanh hơn ở nhiệt độ phòng thí nghiệm, ngược lại nấm Aspergillus ký sinh sẽ phát triển nhanh hơn ở nhiệt độ 37oC.
- Phương pháp chẩn đoán miễn dịch được thực hiện bằng cách tiêm trong da dị nguyên Aspergilline để chẩn đoán các trường hợp dị ứng. Phát hiện kháng thể bằng kỹ thuật miễn dịch khuếch tán, miễn dịch điện di có giá trị trong chẩn đoán thể bệnh dị ứng, bướu nấm; trong thể bệnh lan tỏa thường âm tính. Phát hiện kháng nguyên thường được áp dụng với các thể bệnh xâm nhập, phát hiện galactomannan bằng miễn dịch men, miễn dịch phóng xạ, ngưng kết latex; hiện nay có test Platelia Aspergillus (sandwich elisa) khá nhạy, có thể phát hiện từ 0,5 đến 1 ng/ml huyết tương.
Điều trị bệnh được thực hiện theo các thể bệnh khác nhau:
- Thể dị ứng: điều trị như điều trị bệnh hen suyễn.
- Thể bướu nấm: dùng phẫu thuật nếu điều kiện bệnh nhân cho phép, thường chống chỉ định do bệnh phổi cũ. Thuốc điều trị thường không có tác dụng.
- Thể bệnh xâm nhập: dùng thuốc điều trị kém đáp ứng với nấm gây bệnh. Trong một số trường hợp, có thể dùng thuốc amphotericin B phối hợp với flucytosine hoặc rifampicin, nhóm azole như itraconazole. Hiện nay đang hy vọng vào các lại thuốc thế hệ mới như voriconazole, caspofungin có tác dụng tốt đối với nấm Aspergillus gây bệnh.
Phòng bệnh nấm Aspergillus
Phòng bệnh nấm Aspergillus hiệu quả nhất là khắc phục các yếu tố tạo điều kiện thuận lợi để nấm phát triển như thường xuyên vệ sinh môi trường, hạn chế độ ẩm, chống bụi... Khi điều trị các bệnh nội khoa, tránh lạm dụng thuốc kháng sinh, thuốc thuộc nhóm corticoide... Hiện nay một số bác sĩ đã sử dụng fluconazole hay amphotericin B phòng bệnh nhiễm nấm cho các bệnh nhân có các yếu tố nguy cơ.