Bệnh giun chỉ bạch huyết (Filariasis) là một bệnh ký sinh trùng và là một bệnh nhiẽm trùng nhiệt đới, gây ra bởi một loài giun tròn hình sơi chỉ thuộc họ Filarioidea, tất cả có 9 loài giun tròn dạng sơi chỉ được biết và xem người là vật chủ chính. Số này chia thành 3 nhóm phụ thuộc vào vị trí thích hợp trong khoang cơ thể:
§Giun chỉ hệ bạch huyết (Lymphatic Filariasis),
§Giun chỉ dưới da niêm (Subcutaneous Filariasis),
§Giun chỉ trong khoang thanh mạc (Serous Cavity Filariasis).
Giun chỉ hệ bạch huyết gây ra bởi các loại giun Wuchereria bancrofti, Brugia malayi, Brugia timori. Các giun này thường nằm trong hệ bạch huyết, gồm hạch bạch huyết và các bệnh mạn tính thì thường dẫn đến bệnh phù chân voi (Elephantiasis). Giun chỉ dưới da gây ra bởi loại Loa loa (hay còn gọi là giun chỉ ở mắt của châu Phi), Mansonella streptocerca, Onchocerca volvulus, Dracunculus medinensis. Các loại giun này nằm trong lớp dưới da niêm, trong lớp mỡ. Loại giun chỉ trong khoang thanh mạc gây ra bởi các giun Mansonella perstans và Mansonella ozzardi, gây bệnh ở các khoang thanh mạc của bụng. Trong tất cả ca bệnh, vector truyền bệnh là côn trùng hút máu (ruồi hoặc muỗi) hoặc các giáp sát Copepod như trường hợp Dracunculus medinensis.
Bệnh giun chỉ bạch huyết được biết ảnh hưởng lên người cách nay khoảng 4000 năm. Các tài liệu mô tả về triệu chứng bệnh đầu tiên là thế kỷ 16, khi Jan Huyghen van Linschoten viết về bệnh trong suốt quá trình tìm ra Goa. Những nổ lực tử Chương trình toàn cầu loại trừ bệnh giun chỉ (Global Programme to Eliminate LF) được đánh giá là đã phòng ngừa được 6.6 triệu ca mắc mới từ các trẻ em và làm dừng diễn tiến bệnh trên 9.5 triệu người khác nhiễm chúng. Tiến sĩMwele Malecela-chủ tịch chương trình cho biết chúng ta vẫn còn đối mặt và cần nổ lực nhiều hơn để tiến đến mục tiêu loại trừ giun chỉ vào năm 2020.
Hiện nay, hơn 1 tỉ người ở trên 80 quốc gia trên khắp thế giới đang sống trong vùng lưu hành của bệnh giun chỉ bạch huyết. Hàng năm, có hơn 120 triệu người mắc phải căn bệnh này và đã có 40 triệu người trong tình trạng tàn phế với nhiều bộ phận cơ thể bị biến dạng. Ký sinh trùng sống ký sinh chủ yếu trong cơ thể con người, nằm ở hệ bạch huyết (hạch và mạch bạch huyết), gây rối loạn cân bằng chất dịch mô và các thành phần quan trọng của hệ miễn dịch. Giun chỉ có thể sống từ 4-6 năm trong cơ thể người, có khả năng sinh ra hàng triệu ấu trùng lưu hành trong máu à dễ dẫn đến các biến chứng khi bệnh diễn tiến mạn tính.
Biểu hiện phù chân voi là một trong những biến chứng của bệnh giun chỉ bạch huyết, từ hậu quả gây tắc hệ tĩnh mạch do giun, phù chi dưới rất to, phù cứng, ấn không lõm, không đau, da rất dày, biến dạng. Phù có thể lan sang và làm cho bộ phận sinh dục phù, có thể tràn dịch màng tinh hoàn, da bìu cũng xơ cứng, xù xì. Tiểu ra dưỡng chấp. Sinh thiết da: tăng sinh tổ chức liên kết, có hiện tượng chèn ép bạch mạch, nơi tắc có thể thấy giun chỉ. Bệnh chân voi do giun chỉ có thể khuyến cáo điều trị bao gồm: thuốc diệt giun trưởng thành. Thường phối hợp Albendazole (một thuốc giun sán phổ rộng) với ivermectin. Một phối hợp khác cũng rất hiệu quả là dùng Diethylcarbamazine (DEC) và Albendazole cũng hiệu quả không kém. Một số ca bệnh đã có biến chứng phù bạch mạch và khi hệ thống bạch mạch bị phá vỡ thì rất khó khăn, tùy trường hợp có thể phẫu thuật.
Trên thực tế lâm sàng, nhiều thầy thuốc thường hay đối mặt với nhiều ca bệnh có biểu hiện phù chi dưới, nhất là phù giai đoạn ban đầu rất khó chẩn đoán được căn nguyên. Do vậy, trong phạm vi bài viết, chúng tôi xin giới thiệu một số bệnh có thể chẩn đoán phân biệt với biểu hiện phù chân voi, nhất là khi bệnh nhân ấy nằm trong vùng giun chỉ lưu hành (trong bài chúng tôi có tham khảo bài viết “Chân to báo hiệu bệnh gì? của BSCKII. Nguyễn Đức Lê). Việc chẩn đoán sớm các căn nguyên cũng như vị trú gây bệnh sẽ giúp thầy thuốc đưa ra hướng xử trí và can thiệp kịp thời, giành lấy vẻ thảm mỹ cho người bệnh, đặc biệt tránh các di chứng đáng tiếc.
Một số nguyên nhân gây phì đại, sưng tấy chi dưới
Ký sinh trùng giun sán lạc chỗ:
Một số bệnh lý do ký sinh trùng, đặc biệt là sán lá gan, giun đũa chó, giun móc, giun chỉ có khả năng ngoài các vị trí ký sinh và gây bệnh thông thường, chúng còn di chuyển đến một số vị trí khác (ectopic foci) và gây nên các tổn thương không điển hình về mặt giải phẩu bệnh; vị trí hay gặp là cơ bụng chân, tại đó chân sưng to, đỏ có một số đường ngoằn nghèo (do ấu trùng di chuyển). đôi khi có kèm theo sốt, bóp cơ bắp chân đau, đôi khi căng, thi thoảng có thể có ký sinh trùng đục thủng chui ra ngoài da rồi tự hết.
Về điều trị, vẫn dùng các thuốc điều trị đặc hiệu giun sán, phối hợp với kháng sinh và chống viêm tại chỗ, đôi khi phải tiểu phẩu để gắp sán ra khỏi vi trí đó. Nói chung đó là các bệnh lý lành tính, song cũng không nên chủ quan vì có thể lạc các chỗ khác dễ gây tổn thương lan rộng và bội nhiễm là vấn đề phức tạp hơn rất nhiều.
Phản ứng dị ứng trong quá trình điều trị ký sinh trùng và ấu trùng di chuyển :
Các ca như thế này hiém gặp hơn, chẳng hạn trong quá trình điều trị khoảng 1000-1200 ca sán lá gan lớn thì gặp khoảng 1-2 ca, về cơ chế có thể do dưới tác động của thuốc đặc hiệu, sán tăng động và di chuyển trong các cơ quan đang khu trú và có thể đến các cơ quan khác, khi đó nếu có biểu hiện một vùng bắp chân sưng to, căng lên, đỏ và bóng nhưng hiếm khi có sốt, sờ da vùng này có thể nóng hơn so với diện xung quanh. Các biểu hiện sau khoảng 5-10 ngày sau điều trị và đặc biệt có thể tự mất đi mà không cần điều trị. một số trường hợp phải dùng kháng sinh, chống viêm trong 5-7 ngày sẽ khỏi, không để lại di chứng.
Viêm tắc tĩnh mạch chi dưới:
Bệnh lý này thường gặp ở phụ nữ sau sinh, sau phẫu thuật các cơ quan ở khung chậu, sau một nhiễm khuẩn thương hàn, đinh râu; trong suy tim, gầy mòn, ung thư làm tắc tĩnh mạch, bệnh lý phải nằm lâu một chỗ, bất động. Có tiền sử viêm tắc tĩnh mạch ở một hoặc hai chân. Bệnh nhân biểu hiện lâm sàng là sốt 37.5-38oC, mạch nhanh, đau nhiều ở bụng chân khi bóp. Chân phù trắng từ mắt cá đến đùi, phù căng bóng, chắc, ấn lõm, màu da tái nhợt, phù diễn biến từ từ dẫn đến phù cứng, không đau. Có thể tràn dịch khớp gối. Biến chứng là tắc tĩnh mạch và nhồi máu phổi (gặp 5-6% viêm tắc tĩnh mạch).
Phù chi dưới trong thai kỳ
Trong giai đoạn mang thai, phụ nữ thường có dấu hiệu phù chi dưới trong những tháng cuối của giai đoạn thai nghén, do thai lớn chèn ép vào hệ tĩnh mạch. Một số ca cần gián biệt với bệnh lý thận hoặc hội chứng nhiễm độc thai nghén trong thai kỳ (có thể kèm theo tăng huyết áp, protein niệu, phù chi, nhức đầu,...). Trong giai đoạn mang thai, những biến đổi về kích thích tố làm thay đổi sự tuần hoàn của các mạch máu. Người mẹ cảm thấy chân mình nặng; các tĩnh mạch cũng giãn nở để chuyển máu đến bào thai và giúp nó phát triển tốt.
Ðể hiểu rõ tác động của quá trình này, bạn cần biết rằng các tĩnh mạch tập trung thành hai mạng lưới. Một mạng lưới nằm dưới sâu sẽ đi qua các cơ chân và đùi. Mạng lưới còn lại nằm dưới da sẽ vận chuyển máu qua các tĩnh mạch con. Hai mạng lưới này được kết nối nhau và để hoàn chỉnh cả hệ thống, mỗi mạng lưới được trang bị các van một chiều bên trong. Khi các tĩnh mạch căng ra, cả hai cửa của van không khép đụng nhau được. Máu bị chảy ngược lại và làm ứ đầy. Hậu quả là đôi chân bị nặng, bàn chân bị sưng phù, bắp chân bị cứng, chưa kể đến trạng thái mệt mỏi nặng lúc cuối ngày. Nguy cơ này ngày càng tăng khi cha mẹ của người phụ nữ mang thai từng bị đau như thế. Tác giả Degeilh cho biết: "Hiện tượng nở tĩnh mạch là mang tính di truyền. Nếu không một thành viên nào trong gia đình gặp phải những rối loạn tĩnh mạch thì bạn chỉ có 20% nguy cơ bị mắc phải. Nhưng nếu có người bị đau thì nguy cơ tăng lên đến 62% và nếu cả cha lẫn mẹ đều bị thì tỷ lệ sẽ tăng lên đến 90%".
Về phương thức làm giảm nhẹ triệu chứng: trong mọi trường hợp, có thể nhờ đến sự can thiệp của bác sĩ chuyên khoa. Bác sĩ sẽ chẩn đoán xem hệ tĩnh mạch đang hoạt động có bị nở ra không và đang ở giai đoạn nào. Nếu phát hiện có hiện tượng giãn nở tĩnh mạch, bác sĩ sẽ kê toa điều trị phù hợp với thời kỳ mang thai của bệnh nhân và yêu cầu phải giám sát kỹ trọng lượng cơ thể. Theo bác sĩ Maryse Degeilh, phụ nữ mang thai không nên nằm ngủ nghiêng một bên, phải để bào thai không đè lên tĩnh mạch chủ dưới có nhiệm vụ vận chuyển máu từ phần dưới cơ thể - bụng dưới và các chi dưới - lên tim.
Trong trường hợp không phát hiện thấy có hiện tượng nở tĩnh mạch thực sự, bác sĩ chỉ yêu cầu bạn tuân thủ một vài lời khuyên rất hiệu quả sau đây: [1] tránh vị thế đứng và giẫm chân tại chỗ mà phải đi bộ. Chính hoạt động của chỗ lõm ở gan bàn chân và sự co rút của bắp chân sẽ thúc đẩy máu tuần hoàn ngược; [2] Nằm dài ra, hai chân đưa lên cao trong ngày; [3] Uống nhiều nước; [4]Trong thực đơn ăn uống, nên dùng nhiều chất xơ, tránh táo bón, trái cây họ cam và các loại ngũ cốc vì chúng có nhiều vitamin C, E và P có tính năng bảo vệ các thành tĩnh mạch; [5] Dùng các loại kem thoa làm mát chân bằng cách massage từ mắt cá chân lên đến đùi; [6] Mang các loại vớ giữ chân nhẹ và mỏng vì nó sẽ giúp xoa bóp chân mà bạn không nhận ra; [7] Buổi tối khi đi ngủ nên dùng một chiếc gối để kê chân sẽ cảm thấy thoải mái và dễ chịu hơn, đồng thời cũng làm giảm hiện tượng này.
Viêm bạch mạch:
Viêm bạch mạch có thể có hai thể:
+ Thể cấp tính (viêm bạch mạch lan rộng): phản ứng toàn thân rất rõ, sốt, rét run, tại chỗ chân phù, các hạch bạch huyết ở đùi và đau.
+ Thể mạn tính là hậu quả của những thời kỳ viêm bạch mạch huyết cấp tính tái phát. Có loại viêm bạch mạch lan tràn, có loại chỉ viêm ống bạch huyết.
Điều trị viêm tắc tĩnh mạch, viêm bạch mạch có thể dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ, tìm vị trí và nguyên nhân để điều trị triệt để, kết hợp dùng thuốc chống đông, chống viêm, giảm đau.
Phình giãn tĩnh mạch:
Là tình trạng suy các van tĩnh mạch do rối loạn điều hòa giữa hệ tĩnh mạch nông và tĩnh mạch sâu ở chân. Hệ thống van tĩnh mạch có tác dụng giữ máu không tụt trở lại, hệ sâu khó giãn, hệ nông van yếu, tổ chức liên kết yếu nên dễ giãn. Bệnh nhân đứng thấy tĩnh mạch nổi rõ. Có những mao mạch nổi ở dưới da. Có thể thấy tĩnh mạch ngoằn ngoèo từng búi. Có thể to hai chân hoặc một bên to, bên kia nhỏ hơn. Giai đoạn mất bù có đau dữ dội, da rất ngứa, có biến chứng loét da ở chân, rất khó điều trị.
Giãn tĩnh mạch phì đại:
Hiện tượng giãn tĩnh mạch phì đài có các triệu chứng là phình giãn tĩnh mạch, chủ yếu một chi, thường ở cẳng chân. Các tổ chức phần mềm, cơ, mô dưới da phù nề, phì đại, xương cẳng chân cũng to ra. Da phù, dày cộm, thô ráp, nhăn nheo. Là bệnh bẩm sinh, thường được phát hiện sớm. Đôi khi có thêm một số dị tật khác như mất xương sườn số 1, rò động - tĩnh mạch. Bệnh phình giãn tĩnh mạch và giãn tĩnh mạch phì đại, điều trị nội khoa ban đầu, nếu không đỡ thì phẫu thuật cắt bỏ chỗ phình giãn.
Viêm cơ:
Thường gặp viêm cơ trên người suy mòn, người bị đái tháo đường, sức miễn dịch kém. Do tụ cầu vàng, gặp ở vùng nhiệt đới. Nếu do liên cầu hay gây hội chứng sốc. Bệnh nhân sốt cao. Đau vùng cơ viêm, chân không cử động được, có khi từng nhóm cơ mất cử động. Phản ứng màng xương ít. Đùi to ra, dân gian gọi là "lên bắp chuối" ở chân.
U cơ:
Có hai loại: u tổ chức đệm và u tổ chức liên kết. Bệnh thường gặp ở nam giới từ độ tuổi 40-50. Tiến triển từ từ ở những cơ sâu. Triệu chứng đau là chủ yếu. Có hiện tượng u bành trướng ra các cơ khác, chân to ra. Tổ chức dưới da bị thâm nhiễm, chèn ép, gây phù nề, xơ cứng. Có phản ứng màng xương dày lên, u cơ di căn vào các tổ chức hạch bẹn, bụng. Bệnh viêm cơ và viêm cốt tủy, điều trị nội khoa giai đoạn đầu. Nếu bệnh không khỏi, giai đoạn thành mủ hoặc có mảnh xương chết thì phẫu thuật dẫn lưu mủ và nạo xương lấy mảnh xương chết.
Cốt tủy viêm:
Nguyên nhân thường do tụ cầu vàng. Khởi phát rầm rộ: sốt cao, rét run. Bạch cầu tăng cao, có khi co giật. Da ở vùng sưng viêm tấy đỏ, tăng nhiệt. Đau tăng khu trú ở vùng tổn thương, nên phải nằm ở tư thế nửa gấp. Cơ co cứng, không cử động được. Khi có mủ thì màng xương bị phá thủng, mảnh xương chết được đùn ra ngoài theo lỗ rò. Có thể tràn dịch khớp gối, dần chuyển sang giai đoạn mạn tính. Lớp xương mới bồi đắp chồng lên nhau như vỏ củ hành. Có khi xương to gấp đôi xương bình thường, làm chân càng to. Xquang xương mất chất canxi, màng xương bong tách vồng lên, lớp xương mới hình thành ở trong màng xương, có hình mảnh xương chết nằm trong vùng tổn thương.
Ung thư xương:
Thể trạng suy sụp nhanh. Vị trí hay gặp ở các xương dài "gần đầu gối, xa khuỷu tay". Tại vùng có u nổi to rất đau, hạn chế vận động. Trên da có hiện tượng chèn ép tĩnh mạch, bạch mạch. U chèn vào dây thần kinh gây đau, đôi khi có tràn dịch khớp gối, một chấn thương nhẹ có thể gãy xương. Xquang có hiện tượng xương bị phá hủy, xương to, có nhiều thớ dọc, màng xương bị phá hủy. Biến chứng di căn vào phổi.
Các bệnh u cơ và ung thư xương: nếu được xác định chắc chắn về tế bào học thì tiến hành mổ sớm, cắt tổ chức ung thư, tránh di căn đi nơi khác. Sau khi mổ, tùy từng trường hợp có thể điều trị bổ sung bằng tia xạ hay hóa trị liệu.