Bệnh sốt rét ngoài nguyên nhân chính do muỗi truyền, nó còn có nguyên nhân khác do truyền máu nhiễm ký sinh trùng sốt rét và phụ nữ có thai mắc sốt rét truyền sang cho con khi sinh. Trẻ con mới sinh ra có thể bị mắc bệnh sốt rét mặc dù đây là những trường hợp rất hiếm gặp trên thực tế nhưng một số người quan tâm đã liên hệ hỏi những kiến thức cần biết để phân biệt thể bệnh sốt rét bẩm sinh và sốt rét sơ sinh.
Vấn đề bệnh sốt rét và phụ nữ mang thai
Ở vùng sốt rét lưu hành, người phụ nữ khi mang thai có sức đề kháng miễn dịch của cơ thể suy yếu nên dễ có nguy cơ bị mắc bệnh sốt rét, nhất là vào thời gian quý hai của thai kỳ và phụ nữ có thai lần đầu. Bệnh cảnh thường diễn biến nặng với đường huyết giảm chủ yếu vào ba tháng cuối của thai kỳ, khi chuyển dạ và sau sinh đẻ. Nếu bị mắc bệnh với Plasmodium falciparum thì nguy cơ bị sốt rét thể ác tính chiếm tỷ lệ cao từ 10-15 % so với phụ nữ không mang thai và tỷ lệ tử vong cũng rất cao trên 30 %. Nếu bị mắc bệnh với Plasmodium vivax thì việc mang thai tạo điều kiện thuận lợi cho sốt rét tái phát xa do thể ngủ của ký sinh trùng ẩn náu tại gan gây nên sau khi rời khỏi vùng sốt rét lưu hành.
Khi bị mắc bệnh sốt rét với Plasmodium falciparum, người phụ nữ có thai thường bị sốt cao, dễ gây sẩy thai, thai chết lưu, tăng thiếu máu nhất là phụ nữ có thai lần đầu và vào thời gian quý hai của thai kỳ do thiếu acid folic. Hồng cầu nhiễm ký sinh trùng sốt rét bị vón kết trong nhau thai gây nên tình trạng viêm nhau thai dẫn đến trẻ sơ sinh thiếu cân, đẻ non; ký sinh trùng sốt rét có thể từ máu mẹ thoát qua nhau thai gây nên sốt rét bẩm sinh. Đường truyền ký sinh trùng sốt rét từ mẹ sang thai nhi trong tử cung có thể xảy ra nhưng cơ chế chưa hoàn toàn biết rõ. Mặc dù ký sinh trùng Plasmodium falciparum thường tập trung ở nhau thai trong quý hai và quý ba của thai kỳ ở các phụ nữ có thai mắc sốt rét nhưng sốt rét bẩm sinh cũng hiếm gặp, thường dưới 3 ‰ (Covell, 1950; Bruce Chwatt, 1952; Marc Gentilini, 1993) hoặc thấp hơn khoảng từ 0,1 – 0,03 % (P. Song, 1994).
Sốt rét bẩm sinh (Congenital Malaria) và sốt rét sơ sinh (Neonatal Malaria)
Ở vùng sốt rét lưu hành, sốt rét bẩm sinh (Congenital Malaria) được xác định khi phát hiện được ký sinh trùng sốt rét qua lam máu xét nghiệm ở đứa trẻ sơ sinh trong vòng 7 ngày đầu sau khi sinh ra. Nếu phát hiện được ký sinh trùng sốt rét từ ngày thứ 7 đến ngày thứ 28 thì gọi là sốt rét sơ sinh (Neonatal Malaria) và đây có thể là nguyên nhân do muỗi truyền. Vùng sốt rét lưu hành cũng ít gặp sốt rét sơ sinh đối với trẻ con trước 3 tháng tuổi. Biểu hiện lâm sàng của sốt rét bẩm sinh và sốt rét sơ sinh thường âm thầm, có cơn sốt không cao, trẻ con thường quấy khóc, lười bú mẹ, xanh xao, gan, lách to nhanh, dễ còi xương, suy dinh dưỡng nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời.
Sốt rét bẩm sinh và sốt rét sơ sinh rất hiếm gặp vì có thể do kháng thể bảo vệ từ người mẹ có miễn dịch truyền qua nhau thai sang cho con. Một yếu tố cơ bản hạn chế sốt rét bẩm sinh có thể do tế bào nguồn gốc trung mô thuộc nhau thai và tế bào đơn nhân có vai trò thực bào lớn đối với ký sinh trùng sốt rét. Giữa máu mẹ và máu nhau thai có lớp tế bào lá nuôi cũng như hợp bào lá nuôi ngăn cản, vì vậy sốt rét bẩm sinh chỉ xảy ra khi nhau thai có thương tổn.