Mày đay đã ảnh hưởng đến 15-25% dân số ít nhất một lần trong cuộc đời. Mày đay mạn tính (MĐMT) được xác định là một tình trạng xảy ra hầu như là hằng ngày với biểu hiện vết đỏ do dị ứng thường có liên quan đến phù mạch kéo dài ít nhất 6 tuần tác động lớn đến chất lượng cuộc sống. Nhiễm trùng là phần lớn các nguyên nhân được trình bày có quy kết gây nên tình trạng mày đay mạn tính và được định nghĩa rằng tất cả các trường hợp mày đay mạn tính phải bắt đầu từ nhiễm trùng cấp tính. Gần đây, có một lợi điểm đổi mới trong vai trò nhiễm trùng liên quan đến tính nhạy cảm với các bệnh dị ứng và miễn dịch như các bệnh tự miễn. Trong phạm vibài này chúng tôi mong muốn cập nhật y văn và tổng hợp thông tin và một phần dựa trên chuyên mục “Current Opinion in Allergy and Clinical Immunology” trong thời gian gần đây đã đăng tải trên tạp chí nổi tiếng đề cập đến tương tác giữa nhiễm trùng và tình trạng mày đay mạn tính.
Mày đay mạn tính và máy đay cấp tính
Ước tính khoảng 20-30% số trẻ em bị mày đay cấp tính, trong số đó khoảng 91% có liên quan đến bệnh gây ra do nhiễm trùng và tiến triển thành mày đay mạn tính. Do đó, người ta kết luận rằng mày đay mạn tính cũng được gây ra bởi các bệnh nhiễm trùng, nhưng vì thế mà vai trò của các nhiễm trùng trong mày đay mạn tính vẫn còn đang tranh luận bởi các nhà khoa học.
Tỷ lệ nhiễm trùng trên các bệnh nhân bị mày đay mạn tính
Với các khía cạnh và quan tâm đề cập của các tác giả `đã tóm tắt rằng việc sử dung các tiêu chuẩn chọn lựa một nghiên cứu gồm 8 nghiên cứu đa trung tâm báo cáo về bệnh nhiễm trùng cho biết trong 11-31% ngược lại trong 11 nghiên cứu khác về nhiễm trùng đã xác định nguyên nhân gây ra khoảng 0-6% số bệnh nhân.
Virus
Một báo cáo gần đây ấn bản bằng tiếng Pháp kết luận rằng không có nguyên nhân virus chưa được làm rõ trong các trường hợp bệnh nhân bị mắc mày đay mạn tính và việc sàng lọc các chỉ điểm cho bệnh virus chưa cho một kết quả ý nghĩa nào so với các quần thể chung (viêm gan virus B và C, HIV).
Mày đay về kinh điển xem là triệu chứng của bệnh viêm gan virus A hoặc B và được đề nghị là có liên quan thông qua trung gian phức hợp miễn dịch lưu hành trong máu. Tuy nhiên, trong y văn cũng có một số ít bằng chứng liên quan giữa viêm gan virus A và B với tình trạng mày đay mạn tính. Các nguyên nhân nhiễm virus Epstein-Barr virus (EBV) và cytomegalovirus (CMV) cũng đã được báo cáo trên trẻ em và người lớn bị nhiễm trùng mạn tính, nhưng nghiên cứu một cách tổng thể và toàn diện thì vẫn còn thiếu. Sự thật về nhiễm virus cúm và á cúm cũng như virus HIV liên quan đến mày đay mạn tính đến nay vẫn còn bàn cãi liên quan đến mày đay như thế nào?
Vi khuẩn
Nhiễm trùng với một vài loại tác nhân vi khuẩn đã được mô tả là có liên quan đến tình trạng mày đay mạn tính. Hầu hết chúng đều diễn tiến thầm lặng và tồn tại trường diễn.
Vi khuẩn Helicobacter pylori
Không có vấn đề bàn cãi gì liên quan đến tần suất nhiễm trùng Helicobacter pylori trên các bệnh nhân mày đay mạn tính tương tự tìm thấy trên các nhóm quần thể chung. Tuy nhiên, đáp ứng miễn dịch với H. pylori có thể khác nhau trên các bệnh nhân mày đay mạn tính. Một số tương tác giữa vật chủ-tác nhân gây bệnh (pathogen-host interactions) đã được mô tả cơ chế bệnh sinh của các bệnh nhân nhiễm vi khuẩn H. pylori cũng đã cho thấy có tỷ lệ cao về thành phần IgG trong dãi băng của các kháng thể chống lại H . pylori và liên đới đến lipoprotein lpp20 hơn là các bệnh nhân nhiễm H. pylori mà không biểu hiện mày đay mạn tính. một nghiên cứu gần đây chỉ ra tác động hay ảnh hưởng của liệu pháp kháng sinh trong bệnh nhân bị mày đay mạn tính nhiễm H. pylori lại có hiệu quả. Tổng hợp một cách hệ thống các nghiên cứu tồn tại với chủ đề này cho thấy rằng việc giải quyết chứng mày đay là có thể đạt được khi dùng liệu pháp kháng sinh thành công loại bỏ H. pylori hơn là các bệnh nhân nhiễm mà không dùng kháng sinh đã không đạt được hiệu quả mong muốn. Các tác giả kết luận rằng các thầy thuốc lâm sàng sau khi cân nhắc đến các nguyên nhân khác có thể gây nên tình huống mày đay, nên thiết lập và đưa ra các tiêu chí giúp giải quyết tốt hơn, gồm có:
[1] kiểm tra xét nghiệm đối với H. pylori;
[2] điều trị thích hợp với kháng sinh nếu xét nghiệm phát hiện có H. pylori;
[3] Xác định việc loại trừ nhiễm sau khi điều trị thành công.
Vi khuẩn Streptococci / Staphylococci
Các liên cầu nhóm A được biết như là một tác nhân có liên quan đến nhiễm trùng và mày đay ở con người. Chúng sinh ra các độc tố ngoại bào (exocellular toxins) như streptolysine và các enzyme (jaluronidase, deoxyribonuclease) và tạo ra một thành phần vách tế bào đặc biệt (antigen M) có thể gây nên một đáp ứng kháng thể đặc hiệụ. Các kháng thể chống lại các kháng nguyên của các vi khuẩn này (streptococcal và staphylococcal antigens) đã được tìm thấy trên các bệnh nhân mày đay mạn tính, nhưng một nghiên cứu điều trị và so sánh một cách hệ thống thì vẫn chưa có cụ thể, nên chúng ta chưa có bằng chứng khẳng định chính xác và thuyết phục. Trong số 13 bệnh nhân có kháng thể với streptococci, thì có 4/13 chỉ ra có sự thuyên giảm của tình trạng mày đay mạn tính sau khi dùng erythromycine. Số còn lại tìm thấy chỉ số kháng thể antistreptococcal cao bất thường trong 9/13 bệnh nhân mày đay mạn tính và điều trị bằng amoxicillin + bismuth nếu cũng nhiễm H. pylori. Dẫn đến có kết quả trong số 8/9 trường hợp (6 ca không có triệu chứng và 2 trường hợp cải thiện đáng kể). Sự thuyên giảm được phát hiện rõ ràng về mày đay trên tát cả trẻ nhiễm trùng sau khi dùng cefuroxim hoặc amoxicillin.
Nhiễm trùng và mày đay: Tóm tắt tổng thể
Từ các dẫn liệu của y văn nó có thể nhìn thấy tần suất nhiễm trùng hoặc là vi khuẩn, hoặc virus, ký sinh trùng hoặc nấm, dường như không khác nhau trong một quần thể chung. Tuy nhiên, có một số lượng rất lớn báo cáo cho biết lợi ích sau khi có sự loại bỏ tiến trình nhiễm trùng và thật khó tin rằng tất cả trường hợp này đều do sự thuyên giảm hay lành bệnh do tự phát. Tuy nhiên, các nghiên cứu sẵn có vẫn còn một số thiếu sót và không thể tổng hợp như một nghiên cứu meta-analysis hay theo quy luật của y học chứng cứ.
Một số vi trùng khác
Một số trường hợp đã báo cáo về nhiễm trùng nha khoa liên quan đến mày đay mạn tính. Sau khi điều trị nhiễm trùng nhà khoa, thuốc chống dị ứng thì tình trạng mày đay dừng và không còn mày đay xuất hiện nữa. Tuy nhiên, một nghiên cứu rất gần đây đang điều tra trên 66 bệnh nhân bị mày đay cấp tính hoặc mày đay mạn tính và nhóm chứng khỏe mạnh không tìm thấy mối liên quan giữa nhiễm trùng nha khoa mạn tính với mày đay. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng mày đay mạn tính được cải thiện trên một số bệnh nhân bị mày đay mạn tính và viêm xoang, sau khi điều trị viêm xoang thì giảm và mất dần mày đay. Ngược lại, trong một nghiên cứu về triệu chứng học mày đay cho thấy tương tự nhau trên các bệnh nhân mày đay mạn tính nhận phẩu thuật chữa viêm xoang và nhóm không điều trị. Vai trò của viêm xoang và mày đay mạn tính có liên quan hay không hiện vẫn còn đang tiếp tục nghiên cứu nhân rộng trước khi kết luận chính xác.
Ký sinh trùng
Chỉ có một loạt câu chuyện mang tính giai thoại liên quan giữa mày đay mạn tính và bệnh ký sinh trùng như giun đũa chó mèo Toxocara canis, đơn bào Giardia lamblia, giun lươn Strongyloides stercoralis, giun tóc Trichuris trichiura và Blastocystis hominis. Đôi khi sự cải thiện tình trạng mày đay đã được mô tả sau khi điều trị bằng thuốc chống ký sinh trùng, nhưng các dữ liệu không phải lúc nào cũng chắc chắn và có tin cậy.
Nấm
Nấm ở bộ phận da niêm có liên quan đến mày đay mạn tính nhưng chưa thấy có những thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng để chứng minh.
Nhiễm trùng và bệnh tự miễn
Một số nhóm phụ trong mày đay mạn tính cho thấy có tự miễn. Khoảng 145 số bệnh nhân có tự kháng thể (autoantibodies) đối với tuyến giáp và 30-50% kháng thể có ly giải ra histamine để cùng tương hợp mức độ cao với các immunoglobulin receptor (FcRI) hoặc với IgE. Hơn nữa, huyết thanh của bệnh nhân dương tính với ASST (theo test da huyết thanh autologous) chứa các chất kích thích không lệ thuộc Ig chưa xác định của sự hoạt hóa tế bào mass và bạch cầu basophil dẫn đến không chỉ ly giiar histamine mà còn sinh sản ra các cysteinyl leukotriene và hoạt hóa basophil (trình diện trên bề mặt CD63).
Có bằng chứng đang xuất hiện quan tâm rằng các phản ứng viêm liên đới đến nhiễm trùng là một đóng góp quan trọng vào tiến trình tự miễn. một điều thú vị, các nhà khoa học cũng đã chỉ ra một liên quan chặt chẽ giữa nhiễm vi khuẩn H. pylori với phản ứng ASST dương tính. Ngoài ra, một số bệnh nhân có ASST trở nên âm tính sau khi loại bỏ Helicobacter.
Sự “bắt chước” các phân tử
Mối liên quan giữa các kháng thể phản ứng chéo sinh ra trong quá trình nhiễm trùng và sự phát triển của các tình trạng tự miễn tiếp sau đó được biết rõ và đã chỉ ra trong một số mô hình nghiên cứu động vật về bệnh viêm não tủy dị ứng (hay viêm não tăng bạch cầu ái toan_allergic encephalomyelitis), viêm cơ tim thực nghiệm (experimental myocarditis), viêm mạch màng nho tự miễn và viêm sừng. Trong các trường hợp nhiễm H. pylori có biểu hiện mày đay mạn tính chứa cấu trúc hóa học mà trong đó cấu trúc tương tự như các kháng nguyên nhóm máu Lewis hoặc loại lpp20 (H. pylori-associated lipoprotein 20) có thể cho phản ứng chéo với thành phần của da người bệnh.
Kết luận
dù định nghĩa về tất cả trường hợp mày đay mạn tính phải được bắt đầu bằng một tình trạng mày đay cấp tính và thể cấp chủ yếu gây ra sau nhiễm trùng, song không đủ cơ sở dữ liệu rõ ràng để cắt nghĩa xác định chính xác về mối liên quan trực tiếp, như trong hiểu biết đầy đủ của phản ứng Koch’s, giữa nhiễm trùng và mày đay mạn tính. Các mối liên quan khác từ sự niềm tin phù hợp lại ít được ấn bản. Dữ liệu tốt nhất từ nhiễm vi khuẩn H. pylori. Không có bàn luận nào về tỷ lệ mắc bệnh nhiễm trùng với tình trạng mày đay mạn tính tương tự như nhóm chứng. Song, các bệnh nhân bị mày đay mạn tính có thể khác về đáp ứng miễn dịch của họ đối với bệnh nhiễm trùng hoặc có thể hình thành nên quá trình tự miễn/tự phản ứng sinh ra do nhiễm trùng (autoreactivity/autoimmunity).
Điều này dẫn đến tương tự về các epitope như là một cơ chế chắc chắn cho hình thành và sinh mày đay mạn tính. Các dữ liệu lâm sàng hỗ trợ liên quan đến các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm có cơ chế sinh bệnh ra mày đay, chứng minh rằng có sự tồn tại vẫn còn là một thử thách. Người ta không nên nhìn một cách thái quá rằng mày đay mạn tính là một mô hình phản ứng gây ra bởi một số yếu tố ngoại lại lẫn nội tại. Chúng ta cần làm rõ bằng những nghiên cứu đối chứng mù đôi, ngẫu nhiên hoặc đối chứng giả dược bao gồm các bệnh nhân có nét đặc trưng nhất, đủ mô típ chẩn đoán, đủ protocol điều trị để thiết lập vai trò nhiễm trùng trong tình trạng mày đay mạn tính.